Thứ Hai, 30 tháng 6, 2014

Ba loại tổ hợp của sao Thiên Đồng

Thiên Đồng tại mười hai cung, có sáu loại phối hợp, hấp thụ ảnh hưởng của ba tinh diệu Thái Âm, Cự Môn, Thiên Lương. Sắp xếp như sau:

- Tại tý, ngọ cung, Thiên Đồng cùng Thái Âm đồng cung.
- Tại mão, dậu cung, Thiên Đồng cùng Thái Âm xung đối.

"Tý ngọ mão dậu" là nơi đất Đào Hoa, vì vậy cũng ảnh hưởng đến tính chất Thiên Đồng, vì lẽ đó cổ nhân cho rằng nữ mệnh gặp sự phối hợp này, tuy đẹp mà dâm. Trong đó khi cùng Thái Âm đồng cung dường như ảnh hưởng khá mạnh, cùng Thái Âm xung đối mức độ trên có thể giảm bớt.

- Tại sửu, mùi cung, Thiên Đồng cùng Cự Môn đồng cung.
- Tại thìn, tuất cung, Thiên Đồng cùng Cự Môn xung đối.

"Thìn tuất sửu mùi" là đất tứ Mộ, nhưng Cự Môn lại lạc hãm khi vào tứ Mộ địa (cổ ca: "Mộ địa ứng hiềm hãm Cự Môn"), bởi thế cũng ảnh hưởng đến Thiên Đồng khi Cự đồng cung hoặc khi xung đối, như "Thái thái đoàn" (một đoàn các bà vợ quan), một mặt chơi mạt trượt một mặt bàn tán xôn xao rằng Trương gia tài giỏi, rằng Lý gia yếu kém, v.v... loại nữ mệnh này, rất có thể có mệnh cục là tổ hợp Thiên Đồng đi cùng Cự Môn.

- Tại dần, thân cung, Thiên Đồng cùng Thiên Lương đồng cung.
- Tại tị, hợi cung, Thiên Đồng cùng Thiên Lương xung đối.

"Dần thân tị hợi" là nơi tứ Trường sanh. Đối với Thiên Đồng có lợi nhất, có thể gia tăng "Phúc trạch" của Thiên Đồng, nhưng nó lại vẫn cứ là một kết cấu nguy hiểm, câu chuyện đã thuật trước của vị độc giả tuần san giúp cho Vương Đình Chi nhìn ra Anh ta có ý niệm tự sát trong đầu, mệnh tạo của vị độc giả kia là thuộc về kết cấu, cách cục này.

Kết cấu này, rất nhiều khi ngược lại không sợ gặp Sát, Hình, Kỵ, nhưng lại sợ một số cát tinh, cái lý trong đó rất là vi diệu.

Một đặc điểm riêng của kết cấu này là không nên gặp ở nữ mệnh, nữ mệnh gặp Thiên Đồng Thiên Lương, rất nhiều khi gặp gỡ biến thành "quá lộ khê tiễn" (tiền qua đường, qua suối) hoặc là "đơn liệu đồng bảo" (tiên liệu nung chảy đồng) (*), vì lẽ đó cũng dễ dàng sa ngã, không lại nhất định là thông minh hơn người, "nói đầu dấu đuôi". Nhưng thường thường có phối hợp của một hai tá diệu hoặc tạp diệu mới có thể phát sinh thay đổi rất lớn, đôi khi là chủ nhân thông minh mà trinh liệt, cho nên gặp lá số nữ nhân có cách cục "Đồng Lương mệnh", không thể không suy tính cẩn thận, y theo bản phường mà nói thẳng, thời giống như ăn nhiều bội thực cứng nhắc.
P/S: Mệnh Thiên Đồng luôn luôn nhị hợp Tham Lang (một sao tù tinh, tai họa tinh), luôn có Thái dương cư Phúc, phải chăng ảnh hưởng mạnh ??? Ông Vương Đình Chi cho rằng cung Phúc là sự hưởng thụ về mặt tinh thần, tác động mạnh đến các cung, đặc biệt là mặt sự nghiệp, Thái dương chủ đầu óc nên căng thẳng, xì-trét mà ...suy nghĩ tiêu cực !
Từ ngày đọc sách của ông Vương, PL ngộ ra rất nhiều điều hay, cũng như cách lập luận của ổng rất là logic và hợp lý, bảo sao ổng xứng đáng là tông sư (bậc thầy của một trường phái)

(Nguồn: Vương Đình Chi Đàm Đẩu Số)

Thiên Đồng không thuần là Phúc tinh

"Tử vi Đẩu số" có một sao rất dễ bị người ta hiểu lầm, sao này là Thiên Đồng.

Bình thường trong thư tịch Đẩu số, cố gọi Thiên Đồng là "Phúc tinh", vì ấn tượng này liền dễ coi phúc khí người mệnh Thiên Đồng quá trọng. Cổ thư thuyết: "Thiên Đồng thủ mệnh phúc tự thâm, bất úy Hình Sát Kỵ tương xâm" (Thiên Đồng thủ mệnh thì phúc rất dày, nên không sợ các sao Hình Sát Kỵ xâm phạm), càng làm cho người học hiểu sai về tính chất của sao Thiên Đồng. Trên thực tế, tính cách tinh diệu này có rất nhiều khuyết điểm.

Kỳ thực nếu mà tiến hành nghiên cứu tỉ mỉ hết thảy ca quyết cùng luận thuật thời xưa có liên quan đến Thiên Đồng cũng dễ biết khuyết điểm của nó ở đâu, sách nói: "Thiên Đồng Kình Dương đồng cung, thân thể tao thương" (Thiên Đồng Kình Dương đồng cung, trên thân thể phải gặp tổn thương), "Thiên Đồng Thái Âm đồng cung, nữ mệnh tuy mỹ tất dâm" (Thiên Đồng Thái Âm đồng cung, nữ mệnh tuy đẹp nhưng rất dâm), "Nữ mệnh Thiên lương Thiên đồng, nghi tác thiên phòng thiếp thị" (Nữ mệnh Thiên Lương Thiên Đồng, nên làm vợ lẽ, tỳ thiếp hầu hạ).

Cổ nhân đối với khuyết điểm của Thiên Đồng tuy tiết lộ không được nhiều lắm nhưng cũng có thể nhìn ra, Thiên Đồng cũng không phải là hoàn toàn không sợ sát tinh, như các sao Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà La, Thiên Hình, Hóa Kị, chỉ bất quá cổ nhân thích giữ lại một ít, không chịu tuyệt đối công khai, cho nên mới chỉ tiết lộ khuyết điểm của nó khi gặp gỡ Kình Dương, vậy là tự mình phản đối chính mình bằng thuyết pháp "Bất úy Hình Sát Kỵ tương xâm" (Không sợ Hình Sát Kỵ gây nguy hiểm), và mở ra con đường nghiên cứu cho hậu nhân.

Vương Đình Chi giúp một vị độc giả tuần san toán Đẩu số, vừa nhìn thiên bàn, hỏi rằng: "Bạn chẳng phải muốn tự sát sao ?" vị độc giả kia lập tức khóc lên, nói rằng đúng là chính mình đã từng muốn mở khí gaz tự sát, chỉ là muốn tìm Vương Đình Chi đoán mệnh, xem hậu vận như thế nào sau đó mới quyết định. Phen trả lời này, làm Vương Đình Chi kinh sợ đổ mồ hôi thấm ướt cả lưng.
"Tử vi Đẩu số" ở Mân phái, Thiên Đồng không hóa Kị, nhưng Trung Châu phái lại cho rằng Thiên Đồng vẫn có thể hóa Kị. Bằng mệnh tạo vị độc giả tuần san ở trên suy tính ra, chứng minh Trung Châu phái truyền lại tựa hồ có điểm hợp lý hơn Mân phái. Ngược lại nếu là "Phúc tinh" tức không sợ Hóa Kị, có khi dựa vào đây suy đoán sẽ sai một ly, đi ngàn dặm. Bởi vậy Vương Đình Chi hy vọng độc giả nghiên cứu Đẩu số, không thể câu nệ vào thuyết pháp của bản phường (bản in của các phường khắc), vừa thấy Thiên Đồng liền lập tức nói là "Phúc tinh".

Vương Đình Chi có thể lớn mật cho rằng, Thiên Đồng cư mười hai cung đều có khuyết điểm, thậm chí ngay cả cư cung Phúc cũng khiến tinh thần đương số sa sút, tiêu cực, độc giả dù sao cũng phải ghi nhớ, ấn tượng điều này.

(Nguồn: Vương Đình Chi Đàm Đẩu Số)

Luận về sao Thiên Đồng

Thiên Đồng thuộc Dương Thuỷ, hoá khí là “Phúc” chủ về phúc đức, thuộc Nam đẩu hệ. Ở đắc địa người đầy đặn, vào hãm địa thấp nhỏ. Thiên Đồng gặp Đà La nơi Mệnh cung hay có tật ở mắt như lác, lé, cườm mắt. Thiên Đồng thuộc hành Thuỷ nên cũng ưa động, tâm thần không kiên nhẫn mà dao động, luôn luôn đổi ý. Thiên Cơ động già dặn, kinh lịch; Thiên Đồng động một cách non nớt, ấu trĩ
Thiên Đồng gặp Thiên Diêu tâm tình y hệt người đồng bóng, ưa giận dỗi, nay thế này mai thế khác. Số nữ có Thiên Đồng hiền thục mà khó chiều, ưa hờn mát. Thiên Đồng khoái hưởng thụ hơn phấn đấu. Chủ về Phúc nên đóng ở cung Phúc Đức kể như tốt nhất. Phúc Đức cung có sao Thiên Đồng đời sống mãi mãi sung túc với điều kiện không đi cùng Cự Môn
Điểm đặc biệt của sao Thiên Đồng là không sợ Sát Kị, có thể dựa vào Sát Kị để làm kích phát lực. Sát Kị đẩy Thiên Đồng vào thế quyết liệt phấn đấu. Đó chính là lý do cổ nhân đưa ra câu phú: Thiên Đồng Tuất cung Hoá Kị, Mệnh ngộ phản vi giai (Thiên Đồng tại Tuất hội Hoá kị thủ Mệnh biến ra tốt)
Đồng đóng cung Tuất yên vì
Hãm cung nhưng lại được bề hiển vinh
Nhờ sao Hoá Kị thêm xinh
Ấy là ưng hợp dễ thành giàu sang
Cách Thiên Đồng cung Tuất hội Hoá Kị cổ thư gọi bằng “Càn cung phản bối”. Không phải chỉ gặp Hoá Kị không là đủ. Hoá kị chỉ có tác dụng gây phản ứng kiểu như thi trượt rồi đi lính mà lên tướng, nếu đỗ chắc cả ngày đi trốn quân dịch. Ngoài Hoá kị còn cần Cự Môn Hoá Lộc Văn Xương thì mới đến tình trạng bị cực thái lai, sức dồn ép đến mức cùng bật ngược trở lại
Song song với cách Càn cung phản bối là cách Mã đầu đới tiễn (cung tên treo cổ ngựa). Mã đầu chỉ cung Ngọ, tiễn là Kình Dương, sao xung sát như mũi tên. Thiên Đồng đi với Thái Âm tại Ngọ gặp Kình Dương. Chỉ những người tuổi Bính Dậu mới gặp Kình Dương thôi
Phú nói: “Thiên Đồng Kình Dương cư Ngọ vị, uy chấn biên cương”, nghĩa là Thiên Đồng đóng Ngọ cung gặp Kình Dương, uy thế ra tới ngoài biên ải. Đừng nhầm hễ cứ thấy Thiên Đồng hội Kình Dương ở cả cung Tí mà gọi bằng Mã đầu đới tiễn. Cung tên chẳng thể treo cổ chuột
Tử Vi Đẩu Số viết: “Người tuổi Bính an mệnh Tị Hợi gặp Thiên Đồng, công danh tiền bạc tốt”. Đó là cách Điệp Lộc (hai sao Lộc). Hoá Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn từ cung xung chiếu. Cách Điệp Lộc thì giàu có, nếu gặp Tả Hữu Khôi Việt thì còn sang cả nữa
Thiên Đồng đóng Dậu, người tuổi Bính cũng Điệp Lộc, Hoá Lộc tại  Mệnh, Lộc Tồn từ cung Tài Bạch đứng cùng Cự Môn chiếu qua, Hoá Quyền đi theo Thiên Cơ chiếu lên, tiền bạc khá giả nhưng không hay bằng cách Điệp Lộc của Thiên Đồng Tị Hợi bởi lẽ cả ba sao Đồng, Cơ, Cự không đắc địa
Còn như Thiên Đồng tại Sửu mà tuổi Bính cũng Điệp Lộc, Hoá Lộc ở Mệnh, Lộc Tồn cung quan kém hơn. Vì Cự Đồng đồng cung gây chướng ngại trên hoàn cảnh cũng như trên tính tình. Và Lộc ở Quan cũng chẳng bằng Lộc ở Tài
Điệp Lộc còn vào tuổi Đinh khi Thiên Đồng đóng Ngọ. Tử Vi trong mục Tinh luận viết “Đồng Ngọ hãm, Đinh nhân nghi chi”. Đồng Âm Ngọ hãm địa nhưng tuổi Đinh lại tốt vì có Điệp Lộc. Vậy Thiên Đồng cần Điệp Lộc
Về cách Càn cung phản bối của Thiên Đồng tại Tuất đứng với Hoá Kị. Cách này hiện lên chỉ với hai tuổi Tân và Đinh. Tuổi Tân Hoá Kị theo Văn Xương đóng Tuất hoặc Thìn (tuỳ giờ sinh Tí hay Ngọ). Tuổi Đinh, Hoá kị theo Cự Môn đóng Thìn. Tuổi Tân Cự Môn còn có cả Hoá Lộc nữa. Tuổi Đinh thì Đồng đứng bên Hoá Quyền. Khi giải thích về Càn cung phản bối, cổ nhân viết “Thiên Đồng tại Tuất, Đinh Tân nhân ngộ phản vi kỳ” là thế
Thiên Đồng cần đi với Hoá Lộc, ở trường hợp “Càn cung” nó cần Hoá Kị làm sức kích động, sức kích động ấy chuyển tình trạng bất lợi sang trạng thái thuận lợi, chuyển hàn vi thành khá giả. Bĩ cực thái lai, cổ nhân ngầm bảo cho hay rằng cách Càn cung phản bối trước khi thành công phải bị đẩy vào chỗ bĩ cực. Thiên Đồng còn được nhận như “bạch thủ hưng gia” (tay trắng làm nên) chính là rút tỉa từ cách “Càn cun g” vậy. Cách Càn cung phản bối, cổ nhân cho rằng không hợp với nữ mạng. Đàn ông con trai thì phải thiên ma bách triết mới được, đàn bà như thế chẳng khác nào cô thôn nữ chất phác dấn thân vào chốn phồn hoa
Chỉ thấy nói Thiên Đồng tại Tuất mới có cách phản bối. Thiên Đồng tại Thìn thì không. Cũng không thấy Đẩu số toàn thư giảng tại sao
Vào số nữ, cổ nhân cho rằng Thiên Đồng không nên đi với Thái Âm hay Thiên Lương
Đồng Âm ở Tí Ngọ
Đồng ở Tuất hội chiếu Cơ Âm ở Dần
Đồng ở Dậu xung chiếu với Âm ở Mão
Đồng đóng Mão, Thái Âm tam hợp từ Hợi
Đồng Lương cùng đóng Dần Thân
Đồng ở Hợi, Lương ở Tị (và ngược lại)
Đẩu số toàn thư viết: “Nữ Mệnh bị Sát xung phá ắt hình phu khắc tử, Nguyệt Lương xung phá và hợp thường làm thứ thất hay lẽ mọn”. Ngoài ra, sách cũng viết “tuy mỹ nhi dâm” (tuy đẹp mà dâm). Thiên Đồng cung Tí là người nhan sắc diễm lệ “Đồng Nguyệt Tí gái hoa dung; Gặp Tang Riêu Khốc khóc chồng có phen”. Đồng Âm ở đây nếu bị Tang Riêu Khốc thường ly phu, khắc phu, thậm chí sát phu. Đồng Âm ở Ngọ đa đoan, nhan sắc không bằng Đồng Âm cung Tí nhưng tính dục cực vượng cực thịnh. Đồng Dậu Nguyệt Mão, Đồng Mão Nguyệt Hợi cũng dẹp mà dâm vậy
Thiên Đồng chịu ảnh hưởng của Thái  Âm  làm cho ý chí bạc nhược. Nếu bị xung phá của Hoả Linh càng bạc nhược hơn lại thêm bị kích thích. Thiên Đồng chịu ảnh hưởng của Thiên Lương đưa ý chí vào mộng cảnh. Nếu thêm sự xung phá của Kình Đà Hoả Linh thêm phiền nữa
Thiên Đồng mừng thấy Khoa lộc đi bên
Ý chí tình tự vừa đúng, thăng bằng
Nếu Thiên Đồng gặp Quyền Kị Lộc, ý chí tình tự cũng mất thăng bằng như gặp Linh Hoả Lương Âm Kình Đà. Cổ nhân cho rằng cơm no ấm cật quá tất nghĩ chuyện dâm dật
Phú có câu: “Nữ Mệnh Thiên Đồng tức thị hiền” (người nữ Thiên Đồng thủ Mệnh hiền thục). Thiên Đồng không giản đơn như thế. Như cách Cự Đồng vào Nữ mệnh thì tâm trạng không lúc nào hết thống khổ
Bản chất hiền thục tất cần an định êm ả. Không có khả năng chống chọi với phá phách phiền nhiễu. Bởi vậy Thiên Đồng sợ Kị, Kình Đà, Lương, Âm, Hoả Linh
Thiên Đồng Thái Âm đi vào Nam mệnh thì sao? Đồng Âm ở Tí Ngọ đều là con người hào hoa, đa tình. Thiên Đồng Mão Dậu dễ vướng bẫy tình. Cự Đồng đóng cung Sửu Mùi đi vào Nam mạng tầm thường, cuộc đời nhiều chướng ngại
Cần nghiên cứu thêm một số câu Phú sau nói về Thiên Đồng:
- Thiên Đồng ngộ Kiếp Không bất cát (Thiên Đồng thủ Mệnh gặp Kiếp Không thành xấu)
- Đồng Âm đóng Ngọ, tuổi Bính Mậu công danh phát đạt, tiền tài phấn chấn, ngại gặp Long Trì, tất có tật ở mắt
- Đồng Âm thủ Mệnh tại Tí, như mặt trăng sáng nơi cửa trời, nhan sắc xinh đẹp. Nếu bị Tang, Hổ, Riêu, Khốc thâm nhập thì dang dở, khổ tình hay goá bụa
- Đồng Âm đóng Tí thủ Mệnh gặp Thiên Việt có vẻ đẹp uy nghi
- Thiên Đồng Cự Môn đồng cư thủ Mệnh lận đận cuộc đời. Cự Đồng đóng phối cung thì muộn chồng, muộn vợ hoặc gãy đổ tình duyên
- Đồng Lương đóng Mệnh, gặp Thiên Khôi Hoá Quyền lại có Linh Kị và Song Lộc chiếu thì làm kinh thương dễ nên giàu

(Nguồn: Tử Vi Tinh Điển - Vũ Tài Lục)


Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2014

Tướng Tinh đắc địa không hợp thời

"Tướng tinh đắc địa cách" - tức Vũ Khúc lâm miếu vượng cung thủ mệnh.
Cổ ca nói:
Tướng tinh nhập miếu thật vi tường
Vị chánh quan cao đáo xứ cường
Lược địa công thành đa diệu toán
Uy phong lẫm lẫm trấn biên cương.
(Tướng tinh nhập miếu thật là tốt đẹp, ở ngôi vị quan to nơi cường quốc, chiếm đất công thành bằng mưu sâu kế hiểm, uy phong lẫm liệt trấn ngự nơi biên cương.)

Cách cục này thuộc về trường hợp "trông mặt mà bắt hình dong" (nhìn chữ đoán nghĩa), bởi vì thời xưa có thuyết pháp Vũ Khúc là Tướng tinh cho nên mới cho là mệnh "chiếm đất công thành", "uy phong lẫm lẫm" , bởi vậy có thể thấy được cái đơn sơ ngây ngô của giang hồ thuật sĩ thời Minh; học luận mệnh đời nhà Thanh là việc được coi trọng nhưng văn nhân học sĩ chỉ nghiên cứu Tử Bình, không một người nào cảm thấy hứng thú xem "Đẩu số", đó là bởi lý do bất mãn sách vở dạy Đẩu số của thời nhà Minh.

Vũ Khúc tại bốn cung thìn tuất, sửu mùi nhập miếu, tại tý ngọ hai cung thừa vượng, y theo cách cục Vũ Khúc ở mười hai cung có sáu hợp cục, song phàm người có Vũ Khúc tọa mệnh, chẳng phải cứ là số rất tốt sao? Vậy ngày ấy người lập ra cách cục chẳng nghĩ thêm được tường tận là chỗ đó. Hơn nữa, Vũ Khúc vào hai cung thìn tuất là "thiên la địa võng", mặc dù nhập miếu nhưng cũng không xuất sắc, chẳng biết tại sao cũng cho là "Tướng tinh đắc địa".

Phàm người Vũ Khúc thủ mệnh, tuy có thể kiêu ngầm nhưng cũng nhiều ít có một chút tính chất cô khắc, thời xưa người tòng quân phần nhiều không phải là người thiếu niên no ấm, hoặc cơm áo không nhờ cậy được ai, hoặc lục thân bất toàn sau đó mới chịu rời xa nơi chôn rau cắt rốn.

(Nguồn: Vương Đình Chi Đàm Đẩu Số)

Tham Vũ đồng hành cách

"Tham Vũ đồng hành cách" - tức Tham Lang Vũ Khúc nhị tinh tại tinh bàn đích cung sửu hoặc mùi, mà cung Mệnh đóng ở đây.
- Cổ nhân cho rằng cách cục này: "Văn tác giam ti thân hiển đạt, vũ thần dũng mãnh trấn biên cương" (Làm quan văn, thì hiển đạt, làm quan võ thì dũng mãnh trấn biên cương). Vũ Khúc là tài tinh, vừa là vũ chức, gặp Tham Lang đồng cung chủ phú, có thể gia tăng thanh thế của Vũ Khúc, vì lẽ đó định là mỹ cách (cách tốt).
- Nhưng người có cách "Tham Vũ đồng hành", tại xã hội hiện đại đa số lại không làm quan. Vương Đình Chi đã từng gặp qua một vị bằng hữu là thầy thuốc ngoại khoa, ông ta có mệnh cách thuộc loại này. Thầy thuốc ngoại khoa sát khí lớn, hằng ngày khi làm việc chủ yếu sử dụng dao mổ xẻ, tự nhiên tính chất cơ bản này theo như lời cổ nhân lại giống nhau. Mặt khác, Vương Đình Chi cũng gặp qua không ít trường hợp có cách cục này lại là giáo sư khoa học tự nhiên, thí nghiệm khoa học chủ yếu sử dụng (khuấy, ke'o, đẩy,...) thiết bị để làm thí nghiệm, cho nên vì lẽ đó Vương Đình Chi cũng cho rằng có sự tương hợp tính chất đối với cách cục này. - bởi vậy dẫn lại ca quyết (bài vè) của cổ nhân đích không nên câu nệ câu chữ, chỉ nên lĩnh hội tinh thần khả dĩ trong đó mà thôi.
- Cách cục này, cung Mệnh tốt nhất là nên gặp Lộc. Tuổi Mậu, Tham Lang hóa Lộc, tuổi Tân gặp Lộc Tồn ở cung dậu hội hợp, Vũ Khúc Tham Lang đồng cung ở sửu tốt hơn ở mùi, bởi vì sửu cung đối với Vũ Khúc có lợi.
- Hỏa Linh cũng tốt nhưng không thể có Kình Dương đồng thủ, vì như vậy, gặp cùng hai lực lượng sát tinh ko khác gì tự mình triệt tiêu chính lực lượng của mình (vì Kình Dương, Hỏa Linh phá hoại lẫn nhau)

(Nguồn: Vương Đình Chi Đàm Đẩu Số)

Vũ Khúc và Sát Phá Tham có quan hệ mật thiết

Vũ khúc phối hợp tinh diệu, cộng có 6 tình huống:
 - Tại tý, ngọ cung, Vũ khúc Thiên phủ đồng viên.
 - Tại sửu, mùi cung, Vũ khúc Tham lang đồng viên.
 - Tại dần, thân cung, Vũ khúc Thiên tướng đồng viên.
 - Tại mão, dậu cung, Vũ khúc Thất sát đồng viên.
 - Tại thìn, tuất cung, Vũ khúc độc tọa, đối cung là Tham lang.
 - Tại tị, hợi cung, Vũ khúc Phá quân đồng viên.
Các tổ hợp trên dễ thấy Vũ Khúc đặc biệt quan hệ mật thiết với 3 sao Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang. "Sát Phá Tham" là một tổ hợp không tốt và hòa hiệp lắm (tổ hợp chủ hành động/ biến động), điều này ảnh hưởng đến tính chất Vũ Khúc. Hơn nữa, nếu Phu thê cung thấy Vũ Khúc, Thiên Phủ, cung Mệnh tất là Tham Lang; nếu Phu thê thấy Vũ Tướng, cung Mệnh tất vi Thất Sát, điều này có thể thấy được Vũ Khúc bất kể như thế nào, đều không thoát khỏi ảnh hưởng "Sát Phá Tham", mà quan hệ mật thiết với Thất Sát cùng Tham Lang. Cổ nhân không thích nữ mệnh cung Mệnh hoặc Phu thê cung kiến Vũ Khúc, nguyên nhân một phần cũng là không thích quan hệ với bộ "Sát Phá Tham" này.
Nếu y theo thuyết pháp của cổ nhân, Vũ Khúc chỉ có 1 tổ hợp tốt, khiến xuất hiện câu phú "Vũ Khúc hội Tham Lang, Thất Sát cập Liêm Trinh, liền khứ kinh thương" (Vũ Khúc hội Tham, Sát, Liêm, dễ đi vào đường kinh thương), ta nhận thấy mấu chốt chính là sao Liêm Trinh can dự vào, nhờ đó có thể thay đổi, tinh chỉnh tính chất tổ hợp tinh diệu.
Vũ Khúc phối hợp với các tinh diệu khác không dễ thay đổi kết quả này, vì lẽ đó không nên gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương cùng Đà La là "Tứ Sát", cổ nhân phú rằng "Vũ Khúc Hỏa Linh đồng cung, nhân tài bị kiếp", "Vũ Khúc ngộ Kình Dương Đà La, tiện chủ cô khắc", "Vũ Khúc Dương Đà kiêm Hỏa tú, nhân tài táng mệnh", "Vũ Khúc kiến Tứ Sát xung phá, cô bần phá tướng, thậm hoặc yểu thọ".
Tại Úc châu, Vương Đình Chi bị nạn rơi xuống sườn núi cả trăm thước, kết quả điều trị chấn thương ba tháng, mặt mày cơ thể hốc hác vàng vọt, nguyên cớ là do lưu niên trúng cung Thiên di gặp Vũ Khúc lại gặp Đà La, may mà đồng cung còn có một sao Thiên Tướng hơn nữa đại vận đó không quá tầm thường, cho nên mới thoát chết. Nếu gặp sát tinh không phải là Đà La, mà là Hỏa Linh, Vương Đình Chi tin rằng sớm về quê hương với một cái xác không hồn.

(Nguồn: Vương Đình Chi Đàm Đẩu Số)

Tài tinh Vũ Khúc có nhiều khuyết điểm

Vũ Khúc là sao thứ sáu trong chòm Bắc đẩu, ngũ hành thuộc kim, được xếp là tài tinh trong khoa Đẩu số. Tài tinh là chính diệu chủ yếu có 3 sao Vũ Khúc, Thiên Phủ, Thái Âm, ba sao cùng là tài tinh nhưng có những đặc tính không giống nhau.
Trong 3 tài tinh, Vũ Khúc mang tính chất cô khắc, nhất là đối với hôn nhân càng ảnh hưởng, bình thường mà nói, nữ mệnh không nên có Vũ Khúc, bởi vì cổ thư cho rằng: "Vũ Khúc chi tinh vi Quả Tú", nữ nhân gặp chủ quan hệ với đàn ông/chồng bất lợi, hoặc hình khắc vì quá nghiêm, hoặc sanh ly.
Thật ra nếu nghiên cứu kỹ lưỡng tính chất Vũ Khúc, có khi tình trạng này vị tất nghiêm trọng như vậy, vì tính chất cô khắc của Vũ Khúc tất cả đều làm gia tăng tính cương nghị, như dạng phụ nữ sự nghiệp lên hàng đầu, dễ đem tính cách cương nghị vào cuộc sống gia đình, khiến đàn ông cảm thấy gia đình không ấm áp. Xã hội hiện đại phụ nữ cũng có thể có sự nghiệp riêng, có thể phát huy đặc tính Vũ Khúc vào trong sự nghiệp, chứ không nên đem điều đó đối đãi với chồng trong gia đình; ngược lại phải phát huy sự ôn nhu nữ tính, sẽ khiến gia đình tràn ngập hòa khí. Nhưng cho dù được như thế, với chồng cũng ít nhiều khó tránh tình trạng cô khắc. Đây là nhược điểm biểu hiện tại nữ mệnh có Vũ Khúc tọa thủ.

Vũ Khúc có một đặc tính riêng là sợ Hóa Kị nhất, chủ tình cảm vợ chồng phát sinh biến hóa, hoặc chủ tiền tài ra như nước chảy, thậm chí lâm cảnh nợ nần. Người tuổi Nhâm, Vũ Khúc Hóa Kị, nếu lạc vào cung Mệnh, Điền trạch, Phu thê, Tài bạch, Quan lộc thì rất không nên. Nhưng nếu phối hợp nhiều sao tốt, chỉ là ý nghĩa không nên theo đường kinh thương mà thôi. Vương Đình Chi từng chứng kiến một vị thầy thuốc ngoại khoa, có Vũ Khúc Hóa Kị cư cung Quan lộc, nhưng vẫn giàu có.

Vũ Khúc trừ Hóa Kị ra, cũng kỵ gặp Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh. Cổ nhân có thuyết cho rằng "Vũ Khúc Hỏa Linh đồng cung, nhân tài bị kiếp" cái gọi là "nhân tài bị kiếp", không nhất định là gặp phải ăn cướp, bị cướp, mà là tài bạch tổn thất vì nhiều lý do khó cưỡng lại được. Nên nếu Vũ Khúc đi chung với Hỏa Tinh tọa mệnh, thì phá tài rất nhiều, cách hóa giải là giao cho người phối ngẫu nắm giữ. Nhưng nếu Phu thê cung lại không tốt, vậy chỉ thêm nhiều phiền toái mà thôi. 
Vũ Khúc vốn là tài tinh, song đã có không ít khuyết điểm, đủ thấy có khi tài tinh chẳng phải nhất định lúc nào cũng tốt.
Trích: “Vũ Khúc có một đặc tính riêng là sợ Hóa Kị nhất, chủ tình cảm vợ chồng phát sinh biến hóa, hoặc chủ tiền tài ra như nước chảy, thậm chí lâm cảnh nợ nần. Người tuổi Nhâm, Vũ Khúc Hóa Kị, nếu lạc vào cung Mệnh, Điền trạch, Phu thê, Tài bạch, Quan lộc thì rất không nên. Nhưng nếu phối hợp nhiều sao tốt, chỉ là ý nghĩa không nên theo đường kinh thương mà thôi. Vương Đình Chi từng chứng kiến một vị thầy thuốc ngoại khoa, có Vũ Khúc Hóa Kị cư cung Quan lộc, nhưng vẫn giàu có.”
Thực chứng 1 : Nam nhân tuổi Nhâm Dần Vũ cư Tuất trúng Kỵ gia thêm Hổ là cách khắc vợ, đúng câu "trai hai đời vợ, gái hai đời chồng", Vũ cô đơn đến mức không con hay có 1 là may mắn rồi. 
Muốn Vũ thành túng thiếu, không dễ đâu vì Vũ là tài tinh bậc nhất chủ bảo thủ tồn kho, có Kỵ càng chặt chẽ giữ tiền thì sao gọi là túng thiếu, chỉ e rằng Kỵ gặp Hao thêm Thiên Không thành bộ hao túng đì đọa con người chi ly từng cắc như người ăn mày !
Thực chứng 2 : Nữ nhân tuổi Nhâm Tý cũng Vũ Khúc cư Tuất có Kỵ, cũng xong luận án tiến sĩ mà bác Đinh Văn Tân cũng từng coi số, như vậy đâu gọi là xấu, dĩ nhiên Vũ khắc Mộc mệnh thì cuộc đời cô khổ long đong chuyện chồng con, có Kỵ an vào hại nữ / nam tình duyên gia đạo trắc trở !
Cả 2 ví dụ trên cho thấy 2 người đều có công danh, no ấm, chỉ vì Vũ khắc nghiệt còn Kỵ (La Hầu / Kế Đô) là sao ám làm cho cuộc đời ôm một mối hận hành hạ đuơng nhân !

(Nguồn: Vương Đình Chi Đàm Đẩu Số)

Luận về sao Vũ Khúc

Trong Tử Vi Đẩu Số có ba sao thuộc về tiền bạc (tài tinh): Vũ Khúc, Thái Âm, Thiên Phủ; cùng tác dụng nhưng tính chất lại không giống nhau. Vũ Khúc qua hành động tìm tiền. Thái Âm ý thức tìm tiền sắc bén. Thiên Phủ là năng lực lý tài
“Chư tinh vấn đáp” viết: “Vũ Khúc là người quyết đoán, tính cương, lúc mừng lúc giận, khi hiền khi tàn bạo, lúc tạo phúc, lúc gây tai ương”. Rồi viết tiếp: “Vũ Khúc quả quyết, tâm vô độc”. Nói chung hễ đã Vũ Khúc vào Mệnh không thể bao giờ là con người nhu nhược (nam mạng) hoặc thuỳ mị hiền lành (nữ mạng)
Vũ Khúc thuộc Âm Kim, hoá khí là “Tài”, còn có tên khác là Tướng Tinh, và thuộc Bắc Đẩu hệ. Âm Kim nội liễm (ẩn vào trong) nên tịch mịch cô đơn. Vũ Khúc tính quật cường, cố chấp. Thường tự biến thành một địch thủ không dễ chấp nhận thua cuộc hay chịu thất bại, sức đấu tranh bền bỉ, dai dẳng. Thời xưa cầm gươm đao trước trận tiền, làm đồ tể, đúc tiền đều thuộc cái nghề của Vũ Khúc cả. Cổ nhân nói: “Vũ Khúc miếu địa với Xương Khúc đi chung thì xuất tướng nhập tướng, vào võ nghiệp thì thắng lợi, đóng hãm đại là con người nghề nghiệp khéo, giỏi”. Ngày nay mấy chữ “sảo nghệ chi nhân” khả dĩ suy diễn rộng rãi hơn như làm thợ máy, thợ kim hoàn… Đắc địa không cứ phải xuất tướng nhập tướng mà cũng là tay cự phách trong ngành tài chính vậy
Về thế đứng của Vũ Khúc gồm có: độc thủ tại Thìn Tuất, đứng cùng Phá Quân ở Tị Hợi, đứng cùng Tham Lang ở Sửu Mùi, đứng cùng Thất Sát ở Mão Dậu, cùng Thiên Tướng ở Dần Thân, cùng Thiên Phủ ở Tí Ngọ
Đầu tiên nói về cách Tham Vũ. Ở Sửu Mùi, Tham Vũ đồng hành. Ở Thìn Tuất, Tham Vũ thủ chiếu. Vũ Khúc ở Thìn Tuất độc toạ gặp thêm Hoả Tinh hay Linh Tinh là cách bạo phát. Cách này nên buôn bán kinh doanh. 
Cách Vũ Khúc thủ Mệnh tại Thìn hay Tuất cần phụ tinh Hoá Quyền hơn Hoá Lộc, cần Linh Hoả hơn Lộc Tồn. Vũ Khúc Hoả Linh tự nó đã có thể bạo phát. Tại sao cần Hoá Quyền? Vũ Khúc vốn là tài tinh, gặp được Hoá Quyền thì vừa có tiền vừa có thế mới phát mạnh
Tham Vũ đóng cung Sửu Mùi cũng là cách bạo phát. Chỉ khác một điểm, không phát sớm trước tuổi 32, lúc trẻ bôn ba lận đận “Vũ Tham đồng hành, bất phát thiếu niên”. Cổ nhân còn gọi cách Vũ Tham đồng hành là “y cẩm hoàn hương” (áo gấm về làng), nghĩa là đã từng có thời gian lưu lạc giang hồ lúc còn trẻ tuổi, sau thành công về thăm quê cũ. Vũ Tham đóng cùng, dù sinh từ gia đình phú quý cũng không được hưởng phúc cha mẹ.
Vũ Khúc đi kèm với Phá Quân ở Tị hoặc Hợi cực thông tuệ, bất kkể trai hay gái, cái thông tuệ thâm trầm không biểu diễn nhưng quyết liệt không khoan nhượng hay lui bước. Nếu có mềm dẻo chỉ để đạt một mưu tính nào đó. Vũ Phá đồng cung gặp Kình Đà, Linh Hoả học nghệ cho tinh sẽ gây tiếng tăm qua nghề nghiệp, vào kinh doanh thương mại kém hay. Vũ Phá đồng cung gặp Xương Khúc trên lĩnh vực nào cũng đều đắc lực, thêm Khoa Quyền Lộc càng tốt hơn
Một điều cần lưu ý: Vũ Phá đóng cung Tài Bạch không mấy tốt vì tiền bạc khó tụ bền. Căn cứ vào câu Phú: “Vũ Khúc Phá Quân đồng cư Tài Bạch, tài đáo thủ nhi thành công” (Vũ Khúc Phá Quân ở Tài Bạch, tiền vào tay rồi lại hết)
Vũ Khúc hội Kình Dương không nên gặp cả sao Kiếp Sát. Phú có câu: “Vũ Khúc Kiếp Sát hội Kình Dương, nhân tài trì đao” (Vũ Khúc hội Kình Dương, lại cả sao Kiếp Sát nữa, nam mệnh dễ đi vào con đường trộm cướp – nhân tài trì đao nghĩa là vì tiền mà cầm dao), “Vũ Khúc Kiếp Sát kiêm Dương Đà Hoả tú tang mệnh nhân tài” (Vũ Khúc Kiếp Sát gặp Kình Đà, Hoả Tinh có thể mất mạng vì tiền (bị cướp))
Hoả Linh phải đồng cung với Vũ Sát mới kể. Vũ Khúc thủ Mệnh đứng bên Thiên Phủ là một cách kết cấu khác hẳn. Vũ Khúc là tài tinh, Thiên Phủ là tài tinh. Vũ Khúc phấn đấu để có tiền, Thiên phủ vận dụng năng lực để quản lý tiền. Nếu được các sao tốt phù trì thì cách này là cách làm giàu, buôn bán kinh doanh rất hợp
Phú Tử Vi viết: “Vũ Khúc Thiên Phủ đóng Tài Bạch, Điền Trạch, lại thêm Quyền Lộc hẳn sẽ thành phú ông”. Phù trì là Quyền Lộc, Xương Khúc, Tả Hữu. Nhưng trường hợp gặp Lộc Tồn lại thành trọc phú, tham lam biển lận và keo kiệt
Vũ Khúc Thiên Phủ hội Khôi Việt thì nên học ngành tài chính, làm công chức thuế vụ,ngân hàng, không thể tự mình đứng ra kinh thương. Về câu phú “Vũ Khúc Thất Sát cư Mão địa, mộc yểm lôi kinh” chỉ vào cách Vũ Khúc Thất Sát ở mão hay gặp tai nạn. Ở Mão hay xảy ra tai nạn phần đầu vì tường đổ, cây gãy, sét đánh. Ở Dậu hay xảy ra té ngã, xe cộ, thú vật cắn. Vũ Khúc Thất Sát ở Mão hay Dậu mà thấy Thiên Hình, Song Hao hay Sát Kị cũng là số bị trộm cướp, kể luôn vào vận hạn
Về cách Vũ Sát, phú Nôm của Tử Vi Khoa có câu:
“Vũ Quyền Thất Sát ở cùng
Thai Toạ Khôi Việt ba phương chiếu về
Ấy là phát võ uy nghi”
Luận sang cách Vũ Khúc Thiên Tướng. Thân với Dần là hai nơi Thiên Mã trú đóng. Vũ Khúc Thiên tướng ham hoạt động ít chịu nhàn tản, nhiều sáng tạo lực, rất sung sức để san bằng khó khăn. Xa quê hương bản quán dễ phát triển với đầu óc kinh doanh tài giỏi
Phú có mấy câu: “Vũ Tướng Lộc Mã giao trì, phát tài ư viễn quận”, “Vũ Tướng Lộc Mã an bài, buôn xa hoạnh phát mấy người dám đương”
Vũ Khúc Thiên Tướng lại là thường lận đận công danh, khó mà theo đuổi chức cao bổng hậu. Phải tránh không gặp Tuần Triệt thì Thiên Tướng với Thiên Mã mới không bị bẻ gãy khả năng phấn đấu
Vũ Khúc không hợp với Hoá Kỵ. Hai sao này đi đôi tính tình khó chịu, không hoà đồng được với người xung quanh. Vũ Khúc Hoá Kỵ vào Mệnh cung gây ra những căn bệnh kéo dài khó khỏi. Theo quan niệm cổ nhân, Vũ Khúc căn bản không tốt cho nữ mệnh, thường khắc sát phu và ưa đoạt quyền chồng. Vũ Khúc Hoá Kỵ còn gặp Hoả Tinh nữa thì khắc sát tới mấy lần
Còn những câu phú khác về Vũ Khúc:
- Vũ Xương Tị Hợi đinh, Lục Giáp suý biên đình (Vũ Khúc đóng Tị hay Hợi, người tuổi Giáp phát về nghiệp võ. Vì Vũ Khúc đóng cùng Phá Quân ở hai cung trên, tuổi Giáp lại hội tụ được cả Khoa Quyền Lộc, lại có nhị hợp Lộc Tồn nếu đóng Hợi)
- Vũ Tham Thìn Tuất, Mậu Canh dương nữ vô hạnh hữu tài; Kiếp Không hung kiến phùng Hà, Nhẫn vận lâm, mệnh vị nan toàn (Vù Tham thủ Mệnh đóng hai cung Thìn Tuất, số gái tuổi Mậu Canh tài giỏi mà vô hạnh, vận trình gặp hạn Kiếp Không đi cùng với Lưu Hà Kình Dương tính mạng nguy)
- Vũ Khúc Tham Lang Hoá Kỵ, kỹ nghệ chi nhân (Vũ Tham mà gặp Hoá Kỵ ở Mệnh vào nghề xuất sắc như một kỹ sư giỏi, thợ khéo)
- Vũ Khúc Khôi Việt miếu vượng, tài chức chi quan (Vũ Khúc miếu vượng gặp Thiên Khôi, Thiên Việt giỏi về công việc tài chánh)
- Sao Vũ Tướng ở đầu cung ấy, nghề bách công ai thấy cũng dùng

(Nguồn: Tử Vi Tinh Điển - Vũ Tài Lục)

Thứ Năm, 19 tháng 6, 2014

Tái đàm "Nhật Nguyệt giáp Mệnh"

"Nhật Nguyệt giáp mệnh" còn có một trường hợp khác:

- Thiên Phủ tại sửu cung thủ mệnh, Thái dương tại tý, Thái âm tại dần.

- Thiên Phủ tại mùi cung thủ mệnh, Thái dương tại ngọ, Thái âm tại thân.

Thiên Phủ đứng đầu nam đẩu tinh hệ, hơn nữa được ví như ngân hàng trung ương giữa các ngân hàng, bình thường mà nói đương nhiên là có đủ tính chất tốt đẹp, nhưng Thiên Phủ cư cung sửu, mùi lại có một đặc điểm đó là chỉ có một mình chủ tinh độc thủ cung Mệnh, hơn nữa cung Thiên di lại gặp Liêm Trinh Thất Sát, vì đó mà tính chất Thiên Phủ thủ mệnh dễ có rất nhiều biến hóa.
Khi Thiên Phủ thủ mệnh cư vào sửu cung thì thích nhất người tuổi Bính bởi vì có Lộc tồn tại cung tị hội hợp, tăng mạnh lợi ích cho sự nghiệp. Người tuổi Giáp, Đinh, Kỷ, Canh, Quý tất có Kình Dương hoặc Đà La vừa bao vây vừa quấy nhiễu Thiên Phủ, chẳng thể cát lợi.

Khi Thiên Phủ thủ mệnh cư vào cung mùi thì thích nhất người tuổi Nhâm bởi vì có Lộc Tồn ở cung hợi hội hợp. Người tuổi Giáp, Đinh, Kỷ, Canh, Quý có Kình Dương hoặc Đà La cũng quấy nhiễu Thiên Phủ. Đặc điểm Thiên Phủ độc thủ cung Mệnh vốn có tính cách bảo thủ, hơn nữa có thể nói là người có chút cò kè thêm bớt; nhưng đối cung là Liêm Trinh Thất Sát, lại hàm chứa sự thích mạo hiểm, hơn nữa có nhiều loại sở thích, cái cương liệt mạnh mẽ này (Liêm Sát) cùng Thiên Phủ độc thủ cung Mệnh có tính chất xung đột lẫn nhau.
Lúc này, nếu có Lộc Tồn trợ giúp, tài lực Thiên Phủ tăng mạnh, đủ để ứng phó làm tiêu hao Liêm Trinh Thất Sát. Ngược lại, nếu không có Lộc Tồn, mà hội hợp Kình Dương Đà La, Thiên Phủ yếu kém trong phương diện ứng phó Liêm Trinh Thất Sát, cuối cùng hóa ra hao tổn mà thôi và cái tính cách bảo thủ và keo kiệt cố hữu lại tự khiến cho đương số đau lòng, lúc này vì hội hợp ảnh hưởng Dương Đà, khiến cho đương số hiểu được không nên tìm cách làm càn rồi tự mình không thể sửa sai được. Vì vậy có cơ mưu đầy rẫy, cũng rơi vào bọn xảo trá quyền thuật mà thôi.

So sánh sự khởi lai cách cục, cư vu sửu cung thì không tốt bằng mùi cung bởi vì Nhật Nguyệt đồng thời cư vượng cung, cục diện khác nhau khá lớn. Nhưng nếu vô cát tinh củng chiếu, ngược lại có Tứ Sát hội hợp, cục diện càng lớn, càng có cơ mưu quyền thuật tà đạo, vì thế mệnh cục loại này có thể có một chút "không tâm đại lão quan" (viên quan hữu danh vô thực, rỗng ruột).

Thế nên "Nhật Nguyệt giáp mệnh" vị tất đại quý, nhất là tại cái xã hội xa hoa và đầu cơ này.

(Nguồn: Vương Đình Chi Đàm Đẩu Số)

Luận "Nhật Nguyệt giáp Mệnh"

Đẩu số xem trọng "Nhật Nguyệt giáp mệnh", cho rằng lá số rất tốt, mệnh cục này trước tiên chúng ta nghiên cứu hai trường hợp:

- Một, cung Mệnh tại sửu, lúc này Thái Âm tại tý, Thái Dương tại dần. Cung Mệnh có chủ tinh là Vũ Khúc, Tham Lang.

- Hai, cung Mệnh tại mùi, lúc này Thái Âm tại ngọ, Thái Dương tại thân. Cung Mệnh có chủ tinh cũng là Vũ Khúc Tham Lang.

Nói cách khác, chúng ta nghiên cứu người "Nhật Nguyệt giáp mệnh" là nghiên cứu cung Mệnh có 2 sao Vũ Khúc Tham Lang. Vũ Khúc là tài tinh, đồng thời có tính chất độc hành độc đoán, cho nên hành xử cũng rất quyết đoán. Tham Lang là sao tinh xảo nghề nghiệp, đồng thời đại biểu cho năng lực giao tế ứng đối rất tốt. Vì lẽ đó, Vũ Khúc và Tham Lang đồng thủ cung Mệnh thì hai chủ tinh này dễ dàng tác dụng hỗ trợ lẫn nhau.

Một cá nhân, nếu như có năng lực quyết đoán lại có khả năng lý tài, đồng thời có kỹ năng chuyên môn mà lại am hiểu giao tế, chẳng cần phải nói nhiều, đương nhiên là một nhân vật thành công trong thương trường. Nhưng người có mệnh cục này lại có khuyết điểm.

Đầu tiên, Vũ Khúc chủ phát chậm, cho nên chỉ có thể là nhân vật bạch thủ hưng gia (tay trắng làm nên), gian tân khai sáng sự nghiệp.

Tiếp theo, Tham Lang có một mặt yếu kém chính là chủ trầm mê tửu sắc, cờ bạc, bởi vậy cũng rất nguy hiểm, nhẹ thì sự nghiệp vì đó mà không thuận, nặng thì vì tự phụ quá thông minh rồi lầm lỗi thậm chí bị lừa đến tai ương lao ngục. Đó là lý do làm cho người có mệnh cục này thích giở thủ đoạn, giở thủ đoạn rồi vào con đường bất chính, tự nhiên bất lợi.

Người có cách "Nhật Nguyệt giáp mệnh" sợ nhất cung Mệnh gặp Kình Dương, đương mệnh tại sửu cung, cung Tài bạch tất là Liêm Trinh, Phá Quân; đương mệnh tại mùi cung, cung Quan lộc cũng gặp Liêm Trinh, Phá Quân. Liêm Trinh Phá Quân hội Kình Dương ở cung sửu mùi gọi là "Nữu gia đới tỏa" (đeo gông vào cổ)  (*), chủ vì lý do tiền tài hoặc quan lộc mà lâm cảnh hình tụng.

Hơn nữa, không chỉ nói cung Mệnh tại sửu hoặc là tại mùi, mà cung Phúc đức tất kiến Thiên Tướng lạc hãm, cho nên phàm "Nhật Nguyệt giáp mệnh", cho dù là mệnh tạo tốt, bản thân cũng chủ bôn ba vất vả.

Cổ thư cho rằng "Nhật Nguyệt giáp mệnh" là "quý cục", kỳ thật phải có rất nhiều điều kiện phụ, cung Mệnh không thấy Kình Dương, cố nhiên ở ranh giới giữa chánh và tà; nếu có Khôi Việt, Phụ Bật, Xương Khúc tắc có thể sự nghiệp thành tựu, nhất là càng mừng nếu gặp Hỏa Linh, bởi vì có Hỏa Linh liền dễ làm suy yếu đi tính cách "hảo tửu tham hoa".  
Chú thích:
(*) "Nữu gia đới tỏa" : nghĩa đen, vặn gông cùm đeo xiềng xích (vào cổ); nghĩa bóng, mắc hình tụng.

(Nguồn: Vương Đình Chi Đàm Đẩu Số)

Hai ví dụ Thái Dương toạ Mệnh

Vì Thái Dương vốn có khuyết điểm hình khắc, vì lẽ đó cổ nhân liền cho rằng "Nhật Nguyệt thủ mệnh bất như chiếu hiệp" (Nhật Nguyệt thủ mệnh không bằng chiếu hợp). Lý do, xem cung Mệnh nếu không thấy Thái Dương tọa thủ nhưng đắc Thái Dương củng chiếu, đương nhiên khiến cung Mệnh có được tính chất "Quý" vốn có của Thái Dương, mà lại khả năng giảm bớt được sự hình khắc.
Nhưng chẳng biết tại sao, hiện nay nếu xem một người Thái Dương thủ mệnh, độ hình khắc trên thực tế cũng không thái quá theo như lời cổ nhân. Chính như sự quý hiển, theo lời cổ nhân cũng không quý hiển bằng. Vương Đình Chi xem mệnh một bằng hữu, Thái Dương tọa mệnh, cổ nhân cho rằng "Dữ nhân quả hợp chiêu thị phi", nhưng bản thân nhân duyên lại tương đối tốt đẹp, hơn nữa đối với cha cảm tình cũng khá tốt. Hiện thực và theo như lời cổ nhân không một chút tương hợp.
Theo Vương Đình Chi suy đoán, sự e ngại này lý do là vì cách thức tổ chức cuộc sống thời xưa và hiện đại không giống nhau. Thời xưa, hai thế hệ cha con cùng đồng cư một nhà, dễ dàng sinh ra mâu thuẫn, không giống hiện nay, kết hôn xong liền rời cha mẹ sống riêng, vì lẽ đó người Thái Dương thủ mệnh, lại có thể phát huy bản chất tình cảm của sao Thái Dương, bất quá về phương diện khác mà nói, sống riêng cũng có thể xem như bị hình khắc nhẹ nhất.
Quan hệ cùng bằng hữu cũng như thế. Người xưa quan hệ xã giao trong phạm vi hẹp, vì cá tính người Thái Dương khá quyết liệt, trong phạm vi nhỏ không một ai tiếp thu du di cho điều đó, có khi lại biến thành không hợp, thành kiến với nhau, mất vẻ tự nhiên,... không giống như ngày nay xã giao trong phạm vi rộng, trước sau cuối cùng thì khi gặp mặt cũng có thể tiếp nhận cái loại cá tính riêng của bằng hữu.
Cho nên dùng Đẩu số đoán mệnh cho người hiện đại, gặp Thái Dương thủ mệnh thì, không thể không cẩn thận một chút, lời giải đoán không thể ứng hoàn toàn y theo ca quyết cổ nhân để lại.
Ví như cổ nhân nói: "Thái Dương cư ngọ, kỳ quý chuyên quyền", đó là bởi vì mừng cho Thái Dương ví như gặp ánh mặt trời giữa trưa mãnh liệt nhất, trên thực tế, người hiện đại vị tất theo đường chính trị, hơn nữa liên quan đến nó cũng còn ít, thường theo đường kinh thương, vậy Thái Dương tại ngọ thủ mệnh ngược lại dễ dàng biến thành một lão quan rổng ruột vui mừng khi được đứng đầu, điều này thể hiện mặt quý của Thái Dương, vì lẽ đó con người Thái Dương dễ yêu thích hư danh; về phương diện khác Thái Dương không chủ phú, càng yêu cái hư danh càng dễ dàng không tưởng, đến nổi trở thành một lão quan rổng vậy (không tiền cũng không có danh, chỉ có chức quan).
Đơn cử vài ví dụ, tức cũng biết tính chất Thái Dương tọa mệnh.

(Nguồn: Vương Đình Chi Đàm Đẩu Số)

So sánh Thái Dương và Tử Vi

Thái Dương thủ mệnh có rất nhiều tính chất cơ bản, tại Đẩu số Thái Âm chủ phú, Thái Dương chủ quý, đây là tính chất cơ bản nhất, cho nên phàm Thái Dương thủ mệnh, cứ từ phương diện "Quý" này mà quan sát, nhận xét.
Người trọng ở quý, cho nên Thái Dương rất mừng gặp được một số trợ tinh chủ quý hội hợp. Như Thiên Khôi, Thiên Việt; Tả Phụ, Hữu Bật; Văn Xương, Văn Khúc; Tam Thai, Bát Tọa; Ân Quang, Thiên Quý; Long Trì, Phượng Các. Các trợ tinh này chia làm sáu cặp, nếu Thái Dương được tất cả những cặp sao này cùng hội hợp, lực lượng hỗ trợ lớn hơn gấp bội.
Ví dụ nếu Thái Dương cùng hội ba cát tinh Văn Xương, Hữu Bật, Thiên Khôi (chỉ 1 sao trong cặp sao)không bằng khi 3 sao này có đủ một cặp sao, như khi hội đủ Tả Phụ Hữu Bật (có đủ cặp), thì lực lượng so với 3 sao bị phân tán trên lại trở nên rất mạnh.
Tam Thai Bát Tọa, Ân Quang Thiên Quý là những sao đi cặp với nhau, một khi bị phân tán thì lực tác động yếu đi, nhưng nếu đủ cặp đi cùng Thái Dương thì lực tác động lại to lớn, thậm chí lực tác động còn lớn hơn ba bốn sao trong lục cát khi chúng không thành đôi (Lục cát tinh tức Xương Khúc, Khôi Việt, Phụ Bật).
Tính chất này của Thái Dương có thể nói so với Tử Vi không khác biệt lắm, bởi vì Tử Vi cũng cần cát tinh triều củng, sau mới có thể phát huy khả năng. Nhưng trong đó cũng có một chút phân biệt:
- Tử Vi mừng có Thiên Phủ, Thiên Tướng triều củng, Thái Dương dường như không thích vậy; Tử Vi sợ "Lục sát", Tham Lang và Phá Quân, nhưng Thái Dương không sợ, nhưng lại sợ Cự Môn. Tử Vi thủ mệnh là người có năng lực lãnh đạo, phong cách uy nghiêm, khó gần; còn Thái Dương thủ mệnh lực lãnh đạo yếu hơn, nhưng có đặc tính hay giúp đỡ bố thí không cầu lợi lộc, điều này dường như dễ thân cận với người khác.
- Nhưng Thái Dương lại có lực hình khắc mà Tử Vi không có. Tử Vi thủ mệnh, thì quan hệ với cha mẹ, vợ chồng, huynh đệ, con gái tương đối tốt, nhưng Thái Dương thủ mệnh, thì đối với cha, huynh trưởng, con trưởng lại có sự hình khắc, nặng thì tử vong, nhẹ thì sanh ly, hoặc là tình cảm không tốt.
Cho nên tính chất Tử Vi vẫn còn tốt hơn, thậm chí ngay cả so sánh tình trạng sức khỏe cũng tốt hơn một chút.
(Nguồn: Vương Đình Chi Đàm Đẩu Số)

Ba tình huống phối hợp khi Thái Dương toạ Mệnh

Thái Dương đồng cung với các chính tinh khác chỉ có ba tình huống. Ở sửu, mùi cùng Thái Âm đồng cung; tại dần, thân có Cự Môn đồng cung; ở mão, dậu cùng Thiên Lương đồng cung. Còn lại, vào tý, thìn, tị, ngọ, tuất, hợi 6 cung vị, Thái Dương độc tọa.

Nhưng khi Thái Dương độc tọa, cũng có ba tình huống khác nhau. Thái Dương tọa hai cung tý, ngọ, nhất định cùng Thiên Lương xung chiếu nhau; Thái Dương tọa hai cung tị, hợi, nhất định cùng Cự Môn xung chiếu nhau; Thái Dương tọa thìn, tuất cùng Thái Âm xung chiếu nhau. Cho nên các sao phát sinh quan hệ với Thái Dương kỳ thật chỉ có 3 sao Cự Môn, Thiên Lương, Thái Âm, có khác chăng là chia làm 2 loại tình huống đồng cung hoặc đối cung.

Bởi vậy "Trung châu phái" nghiên cứu tính chất Thái Dương rất chú trọng quan hệ của nó cùng Cự Môn, Thiên Lương cũng như Thái Âm, chứ ko chỉ so đo tính toán chú trọng việc Thái Dương bị vây hãm ở cung ban đêm.
Cự Môn chủ ám; Thái Âm chủ phú; Thiên Lương chủ thanh quý. ba loại tính chất cơ bản này có thể ảnh hưởng đến Thái Dương thủ Mệnh, những cách cục này đại khái là Thái Dương ngộ Cự Môn, nếu thiếu cát tinh là người chỉ có hư danh; Thái Dương ngộ Thái Âm, có khả năng phú quý, nhưng cũng có thể thuộc loại tiểu phú quý, thậm chí chỉ là loại kinh tế gia đình (thường thường bậc trung) có chút quyền lực trong phạm vi nhỏ; Thái Dương ngộ Thiên Lương, tất bản thân tuân thủ nguyên tắc quá mức mà thành như nhân vật nổi tiếng chỉ biết làm theo 1 định kiến/nghề nghiệp nhất định, ngược lại mà không nhận ra được cái chung, đại chúng trong xã hội.
Đương nhiên lý thuyết trên chỉ là những đặc tính rất cơ bản, chi tiết cụ thể vẫn là ở sự tương tác biến hóa với các tinh diệu khác mà thành, độc giả không nên chỉ hiểu phần phân tích trên, khi nghiên cứu tính chất sao Thái Dương thủ cung tuyệt đối không phải cứ căn cứ vào ca quyết mà phán định tính chất, mà hẳn là phải căn cứ vào 3 tình huống Thái Dương hội hợp với các sao (đoạn trên) mà xác định. Đó là mệnh pháp (phương pháp luận mệnh), "Trung châu phái" có sự đặc sắc, không ngại mời độc giả tham khảo.

(Nguồn: Vương Đình Chi Đàm Đẩu Số)

Ba tính chất đặc biệt của người Thái Dương thủ Mệnh

Cổ nhân đối với Thái Dương luôn luôn có một thiên kiến rằng miếu vượng tất cát, lạc hãm tất hung. Gọi là miếu vượng, tức là thời giờ ánh mặt trời mãnh liệt, bắt đầu cung Mão đến Ngọ ví như mặt trời giữa ban ngày, đến cung dậu mặt trời bắt đầu lặn về phía Tây, dỹ nhiên là sau đó đến cung Dần được ví như "Thái dương thủy hữu xuất san chi tượng" (tượng mặt trời bắt đầu mọc trên đỉnh núi ). 
Bởi vậy, khi phán đoán người có Thái Dương thủ cung Mệnh, rất coi trọng tính chất cung đóng. Nói cách khác, Thái Dương tại cung Hợi thủ mệnh, vận mệnh không bằng tại Tị cung. Phương thức đoán mệnh này, cơ hồ đã thành "kim khoa ngọc luật" (nguyên tắc vàng ngọc).
Cho nên cổ thư đối với Thái Dương thủ mệnh có vài câu bình ngữ điển hình: 
- "Thái dương thủ mệnh lạc hãm, tuy hóa quyền lộc diệc hung, quan lộc bất hiển, thành bại bất nhất." (Thái Dương thủ mệnh vào đất hãm, tuy hóa Quyền Lộc cũng hung, quan lộc không hiển đạt, thành bại thất thường)
- "Thái dương thủ mệnh, lạc hãm gia hung sát, kỳ nhân đới tật."  (Thái Dương thủ mệnh, lạc hãm thêm hung sát tinh, trong người thường có tật.) 
- "Thái dương thủ mệnh miếu vượng, phú quý vinh hoa."
- "Nữ mệnh Thái dương, cư mão thìn tị ngọ, vô sát, vượng phu ích tử" (Nữ mệnh Thái Dương, cư mão thìn tị ngọ, không hội hợp sát tinh, thì là mẫu phụ nữ làm lợi cho chồng con)
Tóm lại, cứ thấy cung Mệnh cư cung ban ngày có Thái Dương là cát, gặp cung ban đêm Thái Dương cũng có uy lực riêng. Trung Châu phái luận về Thái Dương tinh, dựa trên sự so sánh khách quan nhiều hơn.
Thái Dương tọa mệnh kỳ thật có ba tính chất chung:  
- Thứ nhất là hào phóng, phóng khoáng. Gọi là hào phóng, cũng không phải "Đường triều hào phóng nữ" mà hào phóng này là có tình thần không so đo tính toán tiểu tiết. Cho nên người Thái Dương thủ mệnh, tuyệt đối sẽ không ghi tạc lỗi lầm của người khác trong lòng.
- Thứ hai, coi danh dự lớn hơn mối lợi của mình. Ở Đẩu số, Thái Âm chủ phú, Thái Dương chủ quý, cho nên người có Thái Dương tọa mệnh, bất kể sự nghiệp lớn hay rộng mở cỡ nào, cũng khó mà cự phú (giàu có lớn), thậm chí có khi giá trị giàu có không bằng nhân viên dưới quyền.
- Thứ ba, thường có tâm khí cao ngạo, khiến cho người lâm vào hoàn cảnh bất lợi, tánh khí cũng thường xuyên bất phục đối với thủ trưởng, trừ phi thủ trưởng thực sự có danh vọng, uy tín rất cao, hoặc là có năng lực lãnh đạo mạnh mẽ. Người Thái Dương thủ mệnh nếu không hiểu biết điều này chỉ làm chính mình lâm vào hoàn cảnh không tốt, cũng như phải hiểu rằng ở đâu cũng có người giỏi hơn.
(*) Phuc Loc chú thích: so sánh "Đường triều hào phóng nữ" là ý nói phụ nữ thời nhà Đường (Trung Quốc) ăn mặc rất phóng khoáng (hở ngực,...), nét đẹp hình thể phụ nữ được tôn vinh... một phong cách thời trang rất phóng khoáng và tự do (mặc dù lúc đó là thời phong kiến), thời nay phong cách đó ở cô gái Trung Hoa cũng chưa phổ biến. "Đường triều hào phóng nữ" ---> Ai đã từng coi phim Hoàng Kim Giáp thì biết !!!  

(Nguồn: Vương Đình Chi Đàm Đẩu Số)

Thứ Ba, 17 tháng 6, 2014

Luận về sao Thái Dương

LUẬN VỀ SAO THÁI DƯƠNG:

Thái Dương ý tượng là mặt trời. Cổ Ca viết: “Từ ái lượng khoan đại. Phúc thọ hưởng hà linh” (Lòng từ thiện, quảng đại, tuổi thọ lâu dài). Thái Dương ví như mặt trời chiếu sáng cho vạn vật. Cây cỏ đất đai người vật thiếu ánh nắng không thể sống, nhưng vạn vật không bao giờ phải đền đáp cái ân đó, Thái Dương chỉ cho đi mà không nhận lại. Hiểu rõ bản chất Thái Dương, ta đem so sánh với Thái Âm thì thấy rằng “Thái Dương thường hành động để phục vụ, để trợ giúp; trong khi Thái Âm lại thường hành động vì tư lợi”. Bởi vậy cổ nhân mới bảo Thái Dương “quý nhi bất phú” mà Thái Âm là tài tinh, cái tâm Thái Âm ưa hưởng thụ, vơ vét
Thái Dương thủ Mệnh vào hành chánh, y khoa, vào xã hội công tác hợp, có thể đạt địa vị cao; nhưng buôn bán kinh doanh hoặc làm việc gì cần mưu lợi, thủ đoạn rất dở. Trong khi Thái Âm dễ vào kinh doanh, không phải Thái Âm giảo quyệt nhưng Thái Âm tham hơn

Thái Dương chủ quý nên khi đoán Thái Dương thủ Mệnh phải căn cứ trên chức vị danh vọng. Không phải bất phú là nghèo. Có địa vị, tất nhiên địa vị càng cao tiền càng nhiều. Bất phú nghĩa là không tự mình làm nên giàu. Ở trường hợp Thái Dương đóng Tài Bạch cung đắc địa thì lại khác

Thái Dương cần nhất đắc địa thì ánh sáng mới quang minh. Thái Dương đóng Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ như mặt trời rực rỡ buổi sáng, buổi trưa. Thái Dương đóng Dậu, Tuất, Hợi ví như mặt trời đã mất quang huy. Ngoài đứng đúng chỗ, Thái Dương còn đòi hỏi người mang số Thái Dương phải sinh ban ngày mới hợp cách, sinh ban đêm giảm đi. Sinh ban đêm Thái Dương hãm tuyệt đối hung

Thái Dương cổ nhân gọi bằng ‘thiên trung chi chủ” (chủ tinh giữa tầng trời), giống sao Tử Vi cần bách quan tề tựu. Tất nhiên không bao giờ có Thiên Phủ, Thiên Tướng triều củng.

Cách đẹp là Thái Dương đóng ở Thìn hội chiếu Thái Âm Tuất, Nhật Nguyệt song huy hay tịnh minh. Thái Dương thuộc Hoả quang minh chính đại, thông minh sái lệ, tài hoa. 

Trong hàng ngũ các sao, đa tài của Thái Dương khác đa tài của Thiên Cơ “Trí tuệ của Âm Mộc thâm trầm, trí tuệ của Hoả quang minh lộ liễu”. Thái Dương đa tài về mặt biểu hiện làm chính trị ra ngoài đám đông hoặc vào nghệ thuật biểu diễn như nhạc kịch hội hoạ hợp cách. Thiên Cơ đa tài với kế hoạch, trong bóng tối làm chính trị ở địa vị nghiên cứu, phân tích hoặc vào thuật số âm dương, viết văn hợp cách

Thái Dương thuộc Bính Hoả mãnh liệt, hoá khí là “quý” chứa chất phản kháng tính. Phá Quân cũng phản kháng nhưng có xu hướng phản nghịch. Khác nhau như nào? Vì Thái Dương bản chất quang minh, thấy sai trái thì chống, nhưng chống đối với nguyên tắc không quá đà dẫn đến phản nghịch. Phá Quân cương mãnh làm theo ý mình muốn, dễ quá khích đi đến phản nghịch

Thái Dương đóng cung Quan Lộc đắc địa ý niệm khai sáng mở lối cao và vững. Một ngành nào đang đà xuống dốc vào tay người Thái Dương Quan Lộc khả dĩ hưng thịnh trở lại. Thái Dương ở Tài Bạch dễ có tiền và ưa phô trương tiền bạc qua ăn chơi chưng diện

Mệnh Thái Dương có một cách đặc biệt, ấy là Thái Dương thủ Mệnh tại Hợi. Hợi cung Thái Dương là phản đối, Thái Dương mất đi vẻ huy hoàng, tương ý là mặt trời đêm. Thái Dương tại Hợi đi vào 2 tình trạng cực đoan: hay vô cùng, mà dở cũng vô cùng, rất thuận lợi hoặc rất khốn khó. Thái Dương đóng Hợi nếu có trợ giúp của Xương Khúc, Tả Hữu, Khôi Việt thì tuy thất huy nhưng vẫn được cải thiện nhiều, có một đời sống dễ dãi được. Thái Dương cư Hợi lại hay vô cùng nếu như nó gặp Thiên Mã Hoá Lộc, Lộc Tồn tức là cách Lộc Mã giao trì. Cách này bỏ xứ bỏ quê mà đi rồi phấn đấu thành công, phú quý

Thái Dương tại Hợi, Phú gọi bằng Nhật trầm thuỷ để (mặt trời chìm sâu đáy nước) có Lộc Mã giao trì lại thêm cả Binh, Hình, Tướng, Ấn thì ăn to vào thời loạn. Chư tinh vấn đáp viết: “Thái Dương được các cát tinh khác thủ hay chiếu, rồi lại có Thái Âm đồng chiếu giàu sang đủ cả… Nếu Thân cung Thái Dương đắc địa mà gặp nhiều cát tinh khả dĩ làm môn hạ chốn công hầu, hoặc làm dân chạy cờ cho bậc công khanh”

Thái Dương vào Mệnh với vào Thân cung rõ ràng tạo ảnh hưởng khác biệt hẳn. Một đằng tự mình gầy dựng phú quý, một đằng chỉ làm môn khách nơi cửa quyền. Trừ trường hợp Mệnh cung tự nó có cách tốt riêng. Trường hợp Thân cư Phối thì gái lấy chồng sang, trai được vợ giàu hoặc gia đình vợ thế lực nâng đỡ, nhờ vả nhà vợ mà lên to

Thái Dương ưa Xương Khúc và sợ Hoá Kỵ. Có lý luận rằng nếu Thái Dương đắc địa mà gặp Hoá Kỵ càng tốt, Hoá kỵ như đám mây ngũ sắc khiến Thái Dương thêm rực rỡ. Không phải vậy, Thái Âm gặp Hoá Kỵ đắc địa, Hoá Kỵ khả dĩ biến thành đám mây ngũ sắc; còn với Thái Dương thì không, Hoá Kỵ là đám mây đen, là ám tinh, trong khi tính chất căn bản của Thái Dương là quang minh, quang với ám chẳng thể hợp cùng. Nhất là mệnh Nữ Thái Dương mà có Hoá Kỵ tất nhiên hôn nhân gãy vỡ, lúc nhỏ mồ côi cha hoặc xa cách, hoặc thiếu vì Thái Dương Hoá Kỵ như thế bất lợi hoàn toàn với những người thân thuộc nam giới; ngoài ra còn có thể bị sẩy thai, truỵ thai

Thái Dương thủ Mệnh còn có cách cục trọng yếu khác: Nhật chiếu lôi môn, tức Thái Dương đóng tại Mão. Mão thuộc cung Chấn. Chấn vi lôi. Khi đóng Mão đương nhiên Thái Dương đứng cùng Thiên Lương. Cách Nhật chiếu lôi môn tuyệt đối tốt nếu hội cùng Thái Âm Hợi với Hoá Lộc, thêm Xương Khúc lại càng đẹp, nhất là với chuyện thi cử khoa bảng. Như Phú viết “Dương Lương Xương Lộc, lô truyền đệ nhất danh” (Dương Lương Xương Lộc, loa gọi người đỗ đầu)
Hiện đại cách Dương Lương Xương Lộc có thể là nhà phát minh, người làm những cuộc nghiên cứu nổi danh… Cách Dương Lương Xương Lộc phải là Thái Âm đi với Hoá Lộc chiếu qua mới hợp cách. Nếu Hoá Lộc đứng ngay bên cạnh Thiên Lương thì lại kém hẳn, vì quan hệ Thiên Lương với Hoá Lộc không ổn thoả (sẽ bàn khi luận về Thiên Lương)

Về cách Thái Dương gặp Cự Môn tức ‘Cự Nhật đồng lâm”, hãy xếp qua phía Cự Môn. Ngoài ra còn những cách: Nhật Nguyệt đồng cung Sửu Mùi, Nhật Nguyệt chiếu bích, Nhật Nguyệt tịnh minh.

Nhật Nguyệt tịnh minh gồm có Dương tại Thìn, Âm tại Tuất hoặc Dương tại Tị, Âm tại Dậu. Cách Nhật Nguyệt tịnh minh cũng như các cách khác, cần Tả Hữu, Xương Khúc, Khoa Quyền Lộc. Học đỗ cao, địa vị xã hội vững. Kém hơn nếu bớt đi những phụ tinh, tuy nhiên không kể làm cách đặc biệt
Về Nhật Nguyệt đồng cung Sửu Mùi, nếu Mệnh vô chính diệu, Nhật Nguyệt Mùi hoặc Sửu chiếu đẹp hơn là thủ Mệnh. Phú đưa ra những câu: “Nhật Nguyệt đồng Mùi, Mệnh an Sửu, hầu bá chi tài”, “Nhật Nguyệt Mệnh Thân cư Sửu Mùi, tam phương vô cát phản vi hung”. Cách đầu là Nhật Nguyệt chiếu, cách sau là Nhật Nguyệt đồng thủ Mệnh
“Mấy người bất hiển công danh
Bởi chưng Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi”
“Nhật Mão, Nguyệt Hợi Mệnh Mùi cung, đa triết quế”, nghĩa là Mệnh lập tại Mùi không chính tinh, Hợi Nguyệt chiếu lên, Nhật Mão chiếu qua, học hành đỗ đạt cao, lấy vợ giàu sang.

Trường hợp Thái Dương đắc địa gặp Hoá Kỵ thế nào? Thái Dương tại Tỵ thì Cự Môn đương nhiên tại Hợi, nếu có Hoá Kỵ hợp với Cự Môn hẳn nhiên xấu, tranh đấu cho sự thành đạt khó khăn vất vả hơn gấp bội. Thái Dương đắc địa gặp Hoá Kỵ dễ chiêu oán, nếu đi vào ngành thầy kiện, cảnh sát làm chức nghiệp sinh sống hợp hơn ngành khác

Sao Thái Dương còn có những câu phú sau đây:
Nhật Nguyệt Dương Đà khắc thân (Nhật Nguyệt gặ Dương Đà phần lớn khắc người thân)
Thái Dương đắc địa gặp sao Thiên Hình cũng đắc địa, dễ phát nghiệp võ
Thái Dương Thái Âm hãm tất tối ám, nhưng nếu được Khôi Việt hội tụ lại là người thông tuệ
Âm Dương đóng tại Mùi, làm việc chăm chỉ lúc đầu, sau vì lười mà bỏ dở
Thái Dương ở Thìn, Thái Âm ở Tuất là cách Nhật Nguyệt đắc địa ở bích cung, bích là bức vách ý chỉ Thìn Tuất là Thổ, ngược lại nếu Dương tại Tuất, Nguyệt tại Thìn thì cần gặp Tuần Triệt Thiên Địa Không để đảo lộn thế hãm. Đã song huy mà lại gặp cả Xương, Tuế, Lộc, Quyền, Tả Hữu, Thai Cáo thì danh phận phấn phát sớm chiều
Nhật Nguyệt đóng Sửu Mùi gặp Tuần Không, lại được Quang Quý, Xương Khúc có thể xuất chính làm quan về ngành văn
Nhật Nguyệt đóng tại Sửu hay Mùi nơi Mệnh cung, cả hai đều giảm vẻ rực rợ, rất sợ gặp Địa Kiếp và Triệt Không
Nhật Nguyệt đồng cung tại Sửu, cùng đóng với Khoa Lộc có thể vinh hiển
Nhật Nguyệt đóng tại Sửu Mùi, tam hợp chiếu thủ, không gặp sao nào tốt là hung mệnh, chẳng nên cơm cháo gì
Nhật Nguyệt đắc địa chiếu vào Mệnh vô chính diệu, học một biết mười
Mệnh giáp Thái Dương, Thái Âm đắc địa, thường gần cận quý nhân
Thái Dương thủ Mệnh ở Tị, ánh sang rực rỡ, đứng cùng Lộc Mã Trường Sinh, hay Lộc Tồn, Tả Hữu thì thời bình giàu có; đứng cùng Tướng Quân, Quốc Ấn mà không gặp Tuần Triệt thì thời loạn thành công
Thái Dương thủ Mệnh ở Hợi, ví như mặt trời lặn xuống biển, nếu được Tả Hữu, Khoa Quyền Lộc, Hồng Loan, Thiên Khôi, ở đời loạn hay lập được công lao. Nếu được bộ Tứ linh Long Phụng Cái Hổ mà không gặp sát tinh vào thời bình ắt nổi danh là người tài cán
Thái Dương đóng Ngọ thủ Mệnh, gặp vận Thiên Hình, Tang Môn, Bạch Hổ, Thiên Khốc công danh toại nguyện
Thái Dương hãm Hợi Tí bị Hoá Kỵ, lại gặp cả Kình Dương thì rất xấu
Nhật Nguyệt đi cùng hung sát tinh thì giàu sang không bền

  

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2014

Cơ Lương gia hội, cao nghệ tuỳ thân


("Cơ Lương gia hội" là người có tay nghề cao)

"Cơ Lương gia hội cách" - tức Thiên Cơ Thiên Lương đồng thủ cung Mệnh.

Cổ ca:

Cơ Lương nhập miếu tối kham ngôn
Đắc địa giáo quân phúc lộc toàn
Diệu toán thần cơ ứng cái thế
Uy uy lẫm lẫm chưởng binh quyền.



(Cơ Lương nhập miếu khó nói hết đc điều tốt, vào đắc địa là thầy giáo dạy học cho vua phúc lộc vẹn toàn, có tài thần cơ diệu toán cái thế thiên hạ, khi chấp chưởng binh quyền uy danh lẫm liệt.)

Thiên Cơ Thiên Lương đồng cung, chỉ có hai trường hợp, một là ở cung thìn, lúc này Thiên Cơ thừa lợi, Thiên Lương nhập miếu; một là ở tuất cung, cũng là Thiên Cơ thừa lợi, Thiên Lương nhập miếu, nhưng tuất không bằng thìn, bởi vì khi ở thìn cung thì hội hợp Thái Âm Thiên Đồng ở tý cung là miếu vượng, còn khi ở tuất cung hội hợp Thái Âm Thiên Đồng thất hãm ở cung ngọ. Vì lẽ đó chiếu theo giải thích của Vương Đình Chi, bản thân cách cục Thiên Cơ Thiên Lương tọa thìn cung không chỉ vào cách cục "Cơ Lương nhập miếu".

Cổ nhân đối với tinh hệ "Cơ Lương" này, khẩu quyết rất nhiều, như "Cơ Lương Tả Hữu Xương Khúc hội, văn vi quý hiển vũ trung lương", "Thiên Cơ Thiên Lương đồng cung Thìn Tuất, tất hữu cao nghệ tùy thân"; "Cơ Lương hội hợp thiện đàm binh"; "Cơ Lương đồng tại thìn tuất thủ mệnh, gia cát diệu, phú quý từ tường, nhược ngộ Dương Đà / Không diệu, thiên nghi tăng đạo."

Nhưng thật ra tổ hợp Thiên Cơ Thiên Lương, chủ chỉ người tò mò, thích sự lạ, biện luận gian trá, thích biểu hiện, hơn nữa đa phần không phụ họa ý kiến người khác. Ở thời xưa, có thể tư liệu sống, tài liệu thực tế nói viết, soi sáng không nhiều lắm, nhất là thường thấy văn nhân đàm luận binh pháp, cho nên mới có thuyết pháp "Cơ Lương hội hợp thiện đàm binh".

Vương Đình Chi khi so sánh chú trọng thuyết pháp "tất hữu cao nghệ tùy thân", cái gọi là "cao nghệ", là nói có tay nghề kỹ thuật, thủ công mà thôi. Vào thời hiện đại, người có tổ hợp tinh hệ loại này tốt nhất là nên học tính toán máy móc hoặc làm nghề kế toán, thống kê.

(Nguồn: Vương Đình Chi Đàm Đẩu Số)

Cơ Lương thủ Mệnh có ba loại biến cục

Thiên Cơ tọa mệnh có một biến cục riêng là Thiên Cơ Thiên Lương đồng cung. Tại cổ thư đối với mệnh cách này có 3 câu bình luận:
- "Cơ Lương đồng cung Thìn Tuất, cao nghệ tùy thân"
- "Cơ lương thìn tuất gia cát diệu , phú quý từ tường" (Cơ Lương Thìn Tuất hội hợp thêm cát tinh, người hiền lành hưởng phú quý)

- "Cơ Lương thủ mệnh gia Hình Kỵ, thiên nghi tăng đạo" (Cơ Lương thủ mệnh thêm Thiên Hình Hóa Kỵ, nên theo đường tu hành hay đạo sỹ)

Ba đoạn bình luận này có thể thấy được cách Cơ Lương thủ mệnh, có biến hóa rất lớn.

Phân tích nguồn gốc đưa đến 3 câu phú này kỳ thật là xem xét chỉ từ hai tinh diệu này, so sánh xem sao nào (tác động) mạnh, ví như nếu Thiên Cơ cường, vậy đó là mệnh "cao nghệ tùy thân"; trái lại, nếu lực Thiên Lương cường, phùng cát diệu, tất "phú quý từ tường"; phùng Hình Kỵ tác động đến Thiên Cơ một cách mạnh mẽ, phát huy triệt để tính chất Thiên Cơ, cho nên dễ vào chốn không môn (cửa Phật).

Tọa Thìn Tuất hai cung, vốn là Thiên la địa võng, lực linh động của Thiên Cơ bị ảnh hưởng, bởi vậy chỉ có thể phát huy lực phân tích của Cơ mà thôi. Lại có người hiểu biết tra vấn, rất nhiều công trình sư cùng với giảng viên đều là loại mệnh cục này (đương nhiên không phải loại thường lên giọng chỉ biết phun nước miếng) có thể thấy được loại mệnh cục này tuyệt đối không tầm thường. Cổ nhân gọi là "cao nghệ tùy thân", thời hiện đại khả dĩ chỉ về "chuyên môn học vấn".

Nhưng tính chất Thiên Lương lại có khả năng ảnh hưởng đến Thiên Cơ thành tâm địa hiền lành, trầm mặc ít nói, phẩm tính thanh cao, (từ một người linh động thành người bị động) nên khiến mệnh cục khá kém, rơi vào trường hợp thợ thủ công, bản thân cũng nghiên cứu kỹ thuật rất tốt, thường đạt được nhiều sự tâm đắc. Hoàn một nổi, loại người này có 1 đặc điểm là không chịu đem những điều tâm đắc truyền cho người khác, ngay cả đồ đệ cũng không chịu truyền thụ, vì lẽ đó dù tâm địa thiện lương, nhưng lại thường dễ dàng chiêu oán.

Nếu như gặp Thiên Hình Hóa Kỵ, Thiên Cơ hoàn toàn bị thụ chế, lúc này lực lượng Thiên Lương phát huy cực độ, bản thân sẽ thiên về "hoang tưởng", thích suy tư vấn đề triết học, vì lẽ đó cổ nhân cho là "thiên nghi tăng đạo", kỳ thật thời hiện đại, điều này cũng không hiện thực lắm vì không phải mệnh cục một vị triết gia nào cũng nhất định xuất gia.  

Cơ Lương phối hợp, tinh diệu đã nhược, nhất định không nên gặp sát tinh, nếu không xử sự dễ lâm cảnh rối tinh rối mù, hơn nữa tâm linh lại hư không, không có gì để gởi gắm niềm tin.

(Nguồn: Vương Đình Chi Đàm Đẩu Số)

Sáu tình huống Thiên Cơ độc thủ Mệnh cung

Phàm Thiên Cơ độc tọa cung Mệnh, nhất định phải nghiên cứu cẩn thận cung nó đóng. Tổng cộng có sáu cung vị là "Thiên Cơ độc tọa", tức tý ngọ; sửu mùi; tị hợi, có thể đại khái chia làm ba tổ hợp:

- Tại tý, ngọ cung, Thiên Cơ nhập miếu, tức giống như có người cung phụng, tinh diệu rất trong sáng, cởi mở, tình huống này, người Thiên Cơ tọa mệnh có năng lực phân tích và khả năng linh động rất mạnh. Vương Đình Chi đoán mệnh cho một số công trình sư, y sư, luật sư thì đều thấy họ có cách cục này, có thể thấy được mệnh cục có cách cục này không tầm thường.

Nhưng mà cần phân biệt cẩn thận, xem xét các tinh diệu khác, coi khuynh hướng tính chất Thiên Cơ mạnh vào một phương diện nào, giống như xét mệnh Thiên Cơ lực linh động mạnh dễ có thể là luật sư mà không phải là công trình sư vậy; hay như nếu gặp tinh diệu hội hợp quá xấu, người này lại chỉ có thể là một nhân viên chào hàng nhanh nhạy. Bởi vậy, gặp mệnh cục tương tự phải nhìn ra khuynh hướng chức nghiệp của một người.

- Tại sửu, mùi, Thiên Cơ lạc hãm, tinh diệu quá tối vì thế mà lực linh động giảm bớt rất nhiều; để có thể phát huy năng lực phân tích, tốt nhất là nên gặp Xương Khúc - hai sao chủ thông minh, tất lực phân tích tăng mạnh, có thể tại sự nghiệp có cơ hội thể hiện. Nếu gặp phải một số sao xấu như Hóa Kị thì lực phân tích tất suy yếu đi; lực linh động đã bị khiếm khuyết, lực phân tích lại mơ hồ, thì không thể xác định là thượng cách (cách tốt).

- Tại tị, hợi thì trung bình, lực linh động và phân tích không bằng người Thiên Cơ nhập miếu, nhưng so với người Thiên Cơ lạc hãm (sửu mùi) vẫn còn tốt, đáng tiếc đối cung thấy sao Thái Âm thu hút tác động Thiên Cơ, khiến người có mệnh cục này, lực linh động hóa thành tiêu hao như theo đuổi một phương diện dị tính (khác thường, khác giới tính,...), còn lực phân tích cũng dùng như để phân tích tâm lý người khác giới, như đón trước tâm lý người khác để quan tâm, chăm sóc bằng vẻ ôn nhu, bằng không còn lại chỉ là tốt về những mưu toan, tính toán nhỏ vặt. Cổ thư ghi rằng: "Thiên Cơ tị hợi cung Mệnh phùng, hảo ẩm ly tông gian giảo trọng" (Mệnh có ThiênCơ tị hợi tuy lập nghiệp xa quê no ấm nhưng vẫn nặng về gian xảo).

Cùng cách cục tinh diệu, có thể không giống và biến hóa đa đoan, nhưng khi phân tích phải đứng trên bản chất đã có của nó, điều này độc giả cần lưu ý nhiều hơn.

Thiên Cơ thủ Mệnh là mẫu người linh động

Tại cổ bổn "Tử vi Đẩu số" sao Thiên Cơ được liệt vào "Nam đẩu đệ nhất tinh", mân phái gọi là "Nam đẩu đệ tam tinh". Bản chất thuộc âm, hóa khí là thiện tinh.
Tính chất cơ bản Thiên Cơ chủ về động, tính động của Cơ, Vương Đình Chi đã nói qua, cũng không có ý nói biến động trong cuộc sống, mà là chỉ linh động từ phương diện quan hệ giao thiệp đến tinh thần, hoặc chủ linh động trong làm việc đầu óc.
Cổ nhân đối với Thiên Cơ đánh giá không cao. Chỉ khi cùng Thiên Lương hội hợp, hơn nữa gặp được Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc thì mới thừa nhận là "Văn vi thanh hiển, vũ vi trung lương" cách. Vương Đình Chi cho rằng đánh giá này, chính yếu là sao Thiên Lương hội hợp đến, bởi vì sao Thiên Lương được cho là sao thanh hiển mà trung lương.
Ngoại trừ cách cục này ra, Thiên Cơ chủ "thoái tổ tự hưng" (tổ nghiệp bị suy thoái mà tự mình làm hưng thịnh), chủ tha hương phiêu bạt; ở nữ mệnh tất "Tuy phú quý diệc bất miễn dâm dật" (Tuy phú quý cũng khó tránh dâm dật), gặp sát tinh tất "Dâm tiện thiên phòng xướng tì chi mệnh , phủ tắc hình phu khắc tý" (là mệnh làm vợ nhỏ hay nữ dâm dật, xướng tỳ, nếu không cũng hình phu khắc tý). Chỉ nói vậy mà không chỉ ra căn cứ.

Ngày nay đánh giá sao Thiên Cơ tuyệt không quá xấu như lời cổ nhân, nguyên nhân tại vì hoàn cảnh xã hội cổ kim khác nhau rất nhiều. Thời cổ trọng đôn hậu, không trọng biến; trọng an phận thủ thành, không trọng cải cách, bởi vậy nói tính chất Thiên Cơ ứng biến, linh hoạt, sở trường cải cách, khá dùng đầu óc vào giải quyết sự việc không tâng bốc quá đâu.
Tại Đẩu số, có cách cục "Cơ Nguyệt đồng lương", tức là Thiên Cơ thủ mệnh ở hai cung dần thân, hội hợp ba sao Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương. Cổ quyết thuyết: "Cơ Nguyệt đồng lương tác lại nhân", nói cách khác, mệnh cục này là người đao bút (chuyên viết đơn), soạn kế sách công, cho nên thích hợp vào vai trò đao bút lại (người phụ trách việc văn thư). "Lại" không bằng "Quan", bởi vì lại chỉ là kẻ dưới tay quan để sai khiến, vì như vậy nhìn tổng thể cổ nhân đánh giá Thiên Cơ không bằng quan đứng đầu là người được xã hội thừa nhận quang minh chánh đại.
Xã hội ngày nay, Thiên Cơ có ý nghĩa ở chổ càng linh động càng dễ hòa nhập vào xã hội, đồng thời khi là người làm việc cho chánh phủ, mặc dù là thân phận lại nhân (công chức), địa vị xã hội cũng không được cao, vì thế ta nên đánh giá cao người có Thiên Cơ thủ mệnh. Cũng như càng phải chú ý đến họ bởi vì lý do đầu óc họ luôn năng động, có khả năng thích ứng nhanh với thời đại công nghệ, không thể đánh giá thấp được.
(Nguồn: Vương Đình Chi Đàm Đẩu Số)

Cự Cơ đồng lâm cũng có khuyết điểm

"Cự Cơ đồng lâm cách" - tức cung mệnh có Cự Môn và Thiên Cơ đồng thủ cung Mão Dậu. Cổ ca rằng:
Cự Môn miếu vượng ngộ Thiên Cơ
Cao tiết thanh phong thế hãn hi
Học tựu nhất triều đằng đạt khứ
Nguy nguy đức nghiệp chấn hoa di"
(Cự Môn miếu vượng gặp Thiên Cơ,  như đời gặp cảnh cây cao gió mát (hiếm), sự học thành tựu thẳng một đường phẳng lặng mà tạo sự nghiệp vẻ vang, vinh hiển.)

Thiên Cơ Cự Môn đồng cung một tại cung Mão, một tại Dậu. Cổ nhân bình: "Thiên Cơ dữ Cự Môn đồng cư mão dậu, tất thoái tổ nhi tự hưng" (Cự Cơ mão dậu tất tổ nghiệp suy vi, tự mình phải vực dậy" hay như "Cơ Cự dậu thượng hóa cát giả, túng ngộ tài quan dã bất vinh" (Cơ Cự cư dậu hóa cát, nhưng Tài Quan cư đấy cũng khó vinh hiển), đổi lại cư Mão lại tốt hơn, nguyên nhân vì Thiên Cơ hành mộc, vào cung dậu thụ Kim khắc chế, không bằng tại Mão cung đắc được mộc vượng khí.

Bởi vậy có thể thấy trong "Cự Cơ đồng lâm" cách, Thiên Cơ mới thật sự là yếu tố mấu chốt, chủ yếu do Thiên Cơ chủ cơ biến, linh động, nếu Thiên Cơ bị khắc chế, kềm hãm tất Ám tinh là Cự Môn cũng khó mà dễ dàng dàn xếp ổn thỏa.

Song "Cự Cơ đồng lâm" dù có khuyết điểm, nhưng nó dễ linh động cho phù hợp với hoàn cảnh, có điểm xấu nữa là "đa học vô thành" (học nhiều mà không thành). Cổ ca khi nói sự học là "Học tựu nhất triều đạt đằng khứ", chỉ là cho rằng "học nghiệp thành tựu", chứ cho rằng nhất định thành quan công hầu bá, thì e rằng phải xem hậu thiên bổ cứu như thế nào đã.


"Cự Môn giao nhân, thủy thiện chung ác " (giao du với người Cự Môn, trước lành sau ác), thấy rằng "Cơ cự đồng lâm cách" có khuyết điểm riêng, nhưng nếu nhận biết rõ khuyết điểm ấy mà tiến hành tu chỉnh như gần người quân tử, xa lánh tiểu nhân, tất tự nhiên trở nên "cao phong lượng tiết" (thanh cao độ lượng) vậy.
(Nguồn: Vương Đình Chi Đàm Đẩu Số)

Luận về sao Thiên Cơ

LUẬN VỀ SAO THIÊN CƠ:
Mục “Chư tinh vấn đáp”, Thiên Cơ được gọi là sao giỏi tính toán mưu lược, quyền biến cơ mưu. Hoá khí của sao Thiên Cơ là “thiện”, thâm ý cổ nhân muốn nói tính chất mưu kế quyền biến đặt trên chính đạo hơn tà đạo
Trần Đoàn viết “Thiên Cơ giao hội Thiên Lương Xương Khúc, văn thì thanh hiển, vũ trung lương” nhưng cũng viết tiếp “nếu rơi vào đất hãm, bị tứ sát xung phá là hạ cách”
Đa số chủ tinh đều có hoá khí – ví dụ Phá Quân hoá khí là “Hao” – Thiên Tướng hoá khí là “Ấn”. đi thuận chiều hoá khí mới đắc dụng
Thiên Cơ thuộc âm mộc, mộc của hoa cỏ mềm mại dễ uốn và lay động. Tư tưởng mẫn tiệp, ưa nghĩ ngợi, nghi ngờ, phản ứng mau lẹ, nóng nảy. Kết hợp những điểm trên, Thiên Cơ lúc hành động dễ mắc vào tình trạng dễ nóng vội, dù kế hoạch thấu đáo mà tự mình làm không thành. Thiên Cơ vì hiếu động nên cuộc sống ba động luôn
Thiên Cơ là sao Nam Đẩu, Thiên Cơ thủ Mệnh thông minh sáng suốt, hiếu học, hiếu động, tâm địa từ thiện, vì quá hiếu học, cái gì cũng học nên học rộng mà không tinh. Thiên Cơ đa tài đa nghệ, làm mưu sĩ được, làm con người hành động không hay. Vào nghiên cứu tốt, ở vị trí chỉ huy bình thường
Thiên Cơ nhạy cảm, sức đối kháng không lì lợm nên không hợp với Hoả Linh, Kình Đà, Không Kiếp và sợ nhất Hoá Kị. Gặp Hoá Kị, Thiên Cơ dễ biến ra không tưởng, ảo tưởng, khó nắm bắt thực tế
Thiên Cơ đứng một mình ở Tí, Ngọ, Tị, Hợi, Sửu, Mùi; đứng cùng Thái Âm tại Dần Thân; đứng với Cự Môn ở Mão Dậu; đồng cung với Thiên Lương ở Thìn Tuất
Trước hết nói về Thiên Cơ Cự Môn đồng cung, tức là Cơ Cự đồng lâm. Cách này có những nét đặc thù, không thể không chú ý. Cổ Ca viết: “Với Cự Môn đứng chung, khả dĩ vào vũ chức mơi biên ải, cần phải thêm quyền phùng sát để lập công danh”. Như thế Cổ Ca muốn nói rằng Cơ Cự được Hoá Quyền, mà gặp Tứ Sát không phải ở bản cung mà ở tam hợp chiếu, chủ quý hiển về võ chức
Qua kinh nghiệm thì cách cuộc trên mang nhiều biến hoá, nếu Thiên Cơ Hoá Lộc lại không thành võ nghiệp, chỉ mưu sinh dư dả phong lưu. Cự Cơ Hoá Lộc mà gặp Hoả Linh, kể luôn cả chuyện mưu sinh cũng thăng trầm vô độ, hoặc danh lợi hư ảo. Như vậy, cách Cơ Cự cần Hoá Quyền hơn Hoá Lộc. Trường hợp bị Hoá Kị kể như hỏng
Thiên Cơ bên cạnh Thiên Lương, cổ nhân gọi bằng cách “Cơ Lương gia hội”
“Cơ Lương Xương Khúc, văn thanh hiển, vũ trung lương
Cơ Lương giao hợi thiện đàm binh
Thiên Cơ cánh phùng Thiên Lương tất hữu cao nghệ tuỳ thân
Thiên Cơ Thiên Lương đồng tại Thìn Tuất thủ Mệnh, gia cát diệu, phú quý từ tường nhược ngộ Kình Đà, Không Kiếp thiên nghi tăng đạo”
Cách Cơ Lương nhiều biến thái như thế đấy, có thể viết lý thuyết, ra binh lược, có thể đạt một nghề nghiệp ở mức cao, có thể phú quý, có thể thành người tu hành . Cổ Ca viết “Thiên Cơ đứng cùng Thiên Lương, có khuynh hướng đạo với tăng, nữ mệnh gặp phải, tính dâm bôn”. Ý cổ nhân muốn nói rằng nữ mạng không nên có Cơ Lương. Cổ nhân hơi quá đáng khi dùng hai chữ dâm bôn. Cơ Lương bất quá chỉ là con người khéo léo đến mức sắc sảo khi thủ mệnh nữ. Không phải cứ Cơ Lương là dâm dật. Hợp tác với người nữ Cơ Lương hãy cẩn  thận. Cơ Lương chỉ thật sự dâm dật nếu gặp Kình Đà Hoá Kị mà thôi
“Kình Đà Hoá Kị phá xung
Lại là dâm dật tư thông âm thầm”
Gặp Kình Đà Hoá Kị, trai tăng đạo, nữ dâm bôn, khác nhau ở điểm này. Về mấy chữ “thiên nghi tăng đạo" cũng có thể hiểu là một người thông hiểu về tôn giáo triết học hoặc thuật âm dương tướng số. Đừng nghĩ hai chữ tăng đạo qua hình ảnh mặc áo nâu sồng quét lá đa trong chùa
Cách phổ biến của Thiên Cơ có Cơ Nguyệt Đồng Lương. Sách nói: Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân (Mệnh hội tụ đủ bộ sao Thiên Cơ, Thiên  Lương, Thiên Đồng, Thái Âm thì làm người phụ giúp cơ quan chỉ huy). Chuyển vào hiện đại ngữ thì là công chức, rồi đoán cách ấy hiển hiện thành con người đi làm ba cọc ba đồng hàng tháng lĩnh lương. Không phải vậy, chữ “lại” cho bộ sao Cơ Nguyệt Đồng Lương còn mang ý nghĩa thâm thuý sâu sắc hơn. “Lại nhân” thời xưa là loại người ưa lộng quyền trong phạm vi quyền lực của hắn, Tây Phương coi bọn lại nhân như một thế lực thư lại. Lại nhân giỏi cơ biến, có mưu lược, ăn nói mồm mép, tham tiền, khéo dụng quyền thuật. Nếu chỉ coi như vị công chức thì cái nghĩa đó quá hiền lành, e không lột được thâm ý Cơ Nguyệt Đồng Lương
Cơ Nguyệt Đồng Lương chỉ giỏi phục vụ, mượn quyền mượn thế, không bao giờ làm được kẻ khai sáng. Số Cơ Nguyệt Đồng Lương khả dĩ dùng làm thủ túc rất tốt. Cơ Nguyệt Đồng Lương chính là cách mà Thiên Cơ đứng chung với Thái Âm tại Dần hay Thân. Cổ Ca viết: “Thiên Cơ Thái Âm đồng cư Dần Thân, nan miễn bạt tha hương” (Thiên Cơ Thái Âm đứng chung ở hai cung Dần Thân tất có ngày lưu lãng quê người). Lưu lãng cùng tình trạng với phù động. Do vậy mệnh nữ Thiên Cơ Thái Âm thì tình cảm không chuyên nhất, dễ biến tâm
Có một điểm chung, người nữ Thái Âm bao giờ cũng xinh và khéo. Cơ Âm mà ở Thân tốt hơn ở Dần. Vì Thân đắc vị cho Thái Âm. Cơ Âm nếu gặp Hoá Quyền vào ngành tài chính kinh thương thành công. Cơ Âm gặp Hoá Khoa học vấn nghệ thuật hợp cách. Cơ Âm Hoá Lộc làm ăn khá giả nhưng thường lao tâm khổ tứ về tiền, thần kinh bén nhạy đưa đến suy nhược vì nghĩ ngợi
Bây giờ đến những cách Thiên Cơ độc toạ Mệnh. Thiên Cơ đứng một mình tốt nhất ở hai cung Tí và Ngọ. Vì hai cung này là đất miếu của Thiên Cơ, mặt khác vì nó kết với Cự Môn từ cung xung chiếu Ngọ với Tí là đất vượng của Cự Môn. Thiên Cơ tại Tí Ngọ thi triển được toàn bộ khả năng của nó, Khả năng giải quyết công việc, khả năng thuyết phục, khả năng phản ứng mau với những bất ngờ, khả năng học vấn thi cử
Vấn đế còn lại là việc của Khoa Quyền Lộc. Quyền cần thiết nhất, Khoa thứ nhì, Lộc thứ ba. Trường hợp gặp Hoá Kị, cái thế của Thiên Cơ Tí Ngọ giảm hẳn. Sở dĩ Hoá Quyền cần thiết với Thiên Cơ khgông phải vì bản thân Thiên Cơ mà vì sao Cự Môn xung chiếu. Cự Môn thiếu Hoá Quyền sức mạnh kém (sẽ nói thêm khi bàn về Cự Môn). Với Hoá Kị, Cự Môn càng bị phiền hơn. Thiên Cơ đóng Sửu hay Mùi kể như vào thế hãm địa. Thiên Cơ Sửu Mùi nên an phận
Nếu như không được Tả Hữu, Xương Khúc hoặc Khoa Quyền Lộc trợ giúp, chỉ loanh quanh với tiểu chức. Nếu bị Hoả Linh, Không Kiếp hoặc Hoá Kị ám hại sẽ không tránh khỏi tâm tư hoảng loạn, tình cảm thống khổ
Sách đời sau đưa ra cách Thiên Cơ thủ Mệnh đóng tại Tị và Hợi, nếu gặp phụ tinh hay thì sang quý, có sát tinh biến thành con người gian tà tiểu nhân
Sau đây cần luận thêm bản chất Thiên Cơ:
  •           Đa học đa năng về suy tư nhưng cũng dễ có xu hướng ảo tưởng
  •           Đa biến nên khó mà theo đuổi nghề nghiệp, công việc, lý tưởng nào lâu dài
  •        Thuộc Ất Mộc, mộc của hoa cỏ nên dễ xung đông, thường tạo cho bề ngoài đẹp đẽ, nói năng thuyết phục được người nghe, ít có bụng chân thành mà cảm phục ai, thông minh mà thường dễ bị cái thông minh của mình làm mình nhầm

Có một cách về Thiên Cơ không thấy ghi các sách Hán mà mà lại rất phổ biến trong khoa Tử Vi Việt là Thiên Cơ gặp Khốc Hư đưa đến bệnh lao phổi lao xương
Một số câu Phú cần chú ý:
  •           Thiên Cơ ở Sửu Mùi lầm thế hãm, nhưng nếu được nhiều sao của hành Thuỷ thì cũng nên công vì Thiên Cơ thuộc Mộc lại ở cung thấp thổ nên có thêm nước thì cây khả dĩ đâm chồi nảy lộc, nhưng Thiên Cơ ở Mùi thuộc cung táo thổ dù gặp nước cũng vô ích
  •           Thiên Cơ ở Dần tất đi cùng Thái Âm, lại có Tấu Thư, Hồng Loan mà gặp cả Lộc Tồn hay Hoá Lộc, Quốc Ấn, người nữ lấy chồng sang trọng, quyền thế. Vì Cơ Âm Hồng là người đàn bà đẹp, đa tình, khôn khéo, Tấu Thư có duyên, giỏi nịnh, đàn ngọt hát hay, còn thêm Lộc Ấn là những may mắn thì chuyện cận cửu trùng đâu khó
  •          Cung Thìn lập Mệnh Cơ Lương thủ, người nữ tuổi giáp Nhâm sinh con nhiều nhưng ăn ở không vừa bụng chồng. Người Nam tuổi Ất Quý làm ăn có tiền, vinh hiển nhưng lại gặp vợ lăng loàn
  •             Nữ mệnh Cơ Nguyệt tại Dần Thân mà lại thêm Xương Riêu hay nghĩ đến chuyện dâm
  •           Mệnh mang cách Cơ Nguyệt Đồng Lương mà người tuổi Kỷ, vận hạn gặp Sát Phá Tham thì lại đột phá công danh. Ý chỉ Mệnh có Khoa gặp vận Hoá Quyền
  •           Thiên Cơ gặp Thiên Mã tại Thiên Di cung, thường làm việc ở nước ngoài, nơi xa quê hương bản quán
  •          Thiên Cơ Hư Khốc chẳng màng; phổi kia hãy phải lo toan lấy mình

 (Nguồn: Tử Vi Tinh Điền - Vũ Tài Lục)