Liêm Trinh thuộc Âm Hoả kiêm Mộc, hoá khí là “Tù” trong Bắc đẩu hệ, còn mang tên là Đào Hoa thứ hai (sau Tham Lang). Nói theo Tử Vi hệ phái Việt Nam là Đào Hoa thứ ba. Vì Tử Vi Việt có hẳn một sao Đào Hoa mà Trung Quốc thường gọi bằng Hàm Trì, với Trung Quốc chỉ có 4 chỗ đương nhiên Đào Hoa, ở đây là: Tí Ngọ, Mão Dậu mà họ gọi bằng “bại địa”
Hình dáng Liêm Trinh gầy, nhiều xương hơn thịt, mắt lộ hầu lộ. Liêm Trinh cát hung vô định. Hội họp với nhiều sao tốt thì công danh địa vị cao, trong chính giới phát triển tốt. Gặp các hung sát tinh hay bị hoạ nạn tai ách. Liêm Trinh hoá khí là “Tù”
Liêm Trinh trên tình cảm, tính tình khi thân cảm tình hoà hiệp, lúc ghét giận thì hung dữ bất thường. Chất Đào Hoa của Liêm Trinh cũng căn cứ trên tình trạng thay đổi ấy mà định. Liêm Trinh với nữ nhân, biến thái tình cảm mau và mạnh hơn nam nhân
Trường hợp Liêm Trinh đứng với Hoá Kị hoặc gặp Hoá Kị, chuyện hôn nhân không tránh khỏi đổ vỡ. Liêm Trinh đi với Tham Lang, Thất Sát, Phá Quân nữ mạng, vợ chồng lấy nhau tự nhiên không nghi lễ, hoặc lấy chồng người
Liêm Trinh độc toạ ở Dần Thân; đứng kế bên Thiên Phủ ở Thìn Tuất; đứng cùng Thiên Tướng ở Tí Ngọ; đứng cùng Thất Sát ở Sửu Mùi; đứng cùng Tham Lang ở Tị Hợi
Nói về cách Liêm Sát, Phú viết: “Liêm Trinh Mùi cung vô sát, phú quý thanh dương phan viễn danh” (Liêm Trinh đóng cung Mùi (bên Thất Sát) không gặp hung sát tinh thì phú quý tiếng tăm). Điểm đáng chú ý là không thấy nói tới Liêm đóng Sửu. Nếu chỉ đóng Mùi chưa đủ, cần phải có Tả Hữu nữa mới thực sự ăn to như câu phú trên đây
Liêm Trinh Mùi còn được coi là cách “hùng tú triều nguyên”, đời nếm trải gian truân, ngoài tuổi trung niên thành công. Thêm Quyền Lộc dĩ nhiên như gấm thêm hoa, nhưng căn bản là cần Tả hữu đã. Linh Sát vào Mùi hay Sửu bị Hoá Kị hay Linh Hoả Kiếp Không sẽ biến thành cách “mã cách lý thi” (da ngựa bọc thây) đa số vào võ nghiệp có địa vị cao và rồi chết với nghề. Liêm Sát như thế vào nữ mạng vất vả bôn ba và chết đột ngột. Liêm Sát ở Mùi sách chỉ nói là con người làm ăn có của (tích phú chi nhân)
Đọc trong “Cốt Tuỷ Phú” của Đẩu số toàn thư khi luận về Liêm Sát có mấy câu cho ta cảm tưởng như mâu thuẫn, những câu ấy là: “Liêm Trinh Thất Sát phản vi tích phú chi nhân”, “Liêm Trinh Thất Sát lưu đãng thiên nhai”. Thái Vi Phú lại viết: “Thất Sát Liêm Trinh đồng vị, lộ thượng mai thi”. Thật ra những câu trên không mâu thuẫn. Vì Liêm Sát đồng vị bao giờ cũng xuất hiện ở hai cung Mùi và Sửu. Liêm Sát ở Mùi mới là miếu địa. Liêm Sát Sửu bị vào thế hãm nhược. Vì Mùi là Mộc cục và Hoả khố. Trong khi Sửu là Kim cục và Thuỷ khố. Liêm Sát tại Mùi miếu địa nên tích phú, phấn đấu gian khổ thành công
Liêm Sát Sửu nếu không hội tụ được những cát tinh mà bị hung sát kị vây bọc thành ra lưu đãng thiên nhai (lưu lạc nơi chân trời góc bể), lộ thượng mai thi (bỏ thây ngoài đường). Liêm Trinh vào Sửu, hoả bị thuỷ khắc
Chuyển qua cách Liêm Tham. Cách này đưa đến tình trạng hình tù hoặc khách tử tha hương. Liêm Trinh vốn là đào hoa tinh, Tham Lang cũng lại là đào hoa tinh. Trước hết tình trạng hình tù ở tình trường đã. Mê đắm sắc dục, bạc bài ăn chơi, mang công mắc nợ, bệnh tật triền miên. Hình tù có mấy loại:
- Cảnh sát bỏ tù
- Nợ bỏ tù (suốt đời nợ nần)
- Bệnh bỏ tù (đau ốm hoài)
- Vợ hoặc chồng bỏ tù (cuộc giao duyên hãm)
Không phải cứ vào nhà giam mới gọi là tù. Liêm Trinh không ưa Hoá Kị nhưng cách Liêm Tham mà được Hoá Kị lại giảm bớt hẳn chuyện hình tù. Hoả hay Linh cũng tạo sự tốt hơn cho Liêm Tham. Liêm Tham ở Hợi, hội với Kình Dương Mão, đàn ông tù tội, đàn bà phong trần hoặc Kình Dương Dậu hội chiếu Liêm Tham Tị cũng thế.
Tham Lang là đào hoa tinh, Liêm Trinh cũng là đào hoa tinh. Nay hai sao đào hoa tụ lại một chỗ ở Hợi, cổ nhân gọi bằng “phiếm thuỷ đào hoa” (hoa đào trên sóng nước) thường là con người đam mê tửu sắc, bạc bài, khác với ở Tị ưa mạo hiểm vướng vít vào những rắc rối với luật pháp. Bởi thế Liêm Trinh Tị dễ bị tù hơn Hợi. Cũng có thuyết cho rằng Tham Lang cung Tí mới gọi bằng “phiếm thuỷ đào hoa”. Tí hay Hợi đều thuộc Thuỷ. Nhưng ở Hợi có lý hơn vì ở Tí chỉ có Tham đứng độc thủ. Tham Lang tại Tí cũng mê đắm sắc tình nhưng nhẹ hơn Liêm Tham Hợi. Tham Lang Tí ưa phét lác hơn thực sự hành động
Trường hợp người tuổi Giáp gặp cách Liêm Tham Hợi lại thường phong lưu vì một Lộc ở Mệnh, một Lộc theo thế nhị hợp, chưa kể đến hai sao Quyền Khoa hội tụ. Tại Tí tuổi Giáp không phong lưu như Hợi (thiếu mất Lộc Tồn), công danh lận đận nhưng cũng đáng nể
Liêm Trinh đứng ở bốn cung vượng Tí Ngọ Mão Dậu thì thế nào? Đứng Mão Dậu với Phá Quân. Đứng Tí Ngọ với Thiên Tướng. Liêm Phá là con người tinh thần mạo hiểm cao, có nhiều nghị lực phấn đấu, ưa xông xáo, thông tuệ nhưng học hành thường thôi, hay làm liều, lợi mình trước đã dù có hại người. Liêm Phá có thể là tay sai đắc lực, nhưng không thể thành người bạn tâm giao với ai.
Liêm Phá hợp với tuổi Giáp và Ất. Ất tốt hơn Giáp nếu Liêm Phá đóng Mão cung. Liêm Phá sợ gặp Hoả Tinh, nếu gặp dễ bị tai nạn hoặc ốm đau dữ dội với những bệnh hiểm nguy. Phú có câu: Liêm Phá Hoả cư hãm địa tự ải đầu hà (Liêm Phá hội Hoả Tinh bị tai nạn đến độ phải tự sát). Cái nghĩa đâm đầu xuống sông, treo cổ chỉ để nói lên tình trạng hiểm nguy chứ không nhất định phải vậy
Liêm Hoả Không Kiếp Phá Quân
Hãm cung thắt cổ nợ trần hết duyên
Liêm Phá tại Mão Dậu cung
Sát tinh cùng hội công danh khó màng
Sát tinh ý chỉ Kình Đà Không Kiếp. Tuy nhiên, đối với các tuổi Giáp Ất lại không thể ứng dụng những lời ca trên. Tử Vi Đẩu số toàn thư có đưa ra một câu phú
“Liêm Trinh Tham Sát Phá Quân phùng
Văn Khúc Thiên Di tác cụ nhung”
(Liêm Trinh hội Tham Lang, Thất Sát, Phá Quân, nếu tại cung Thiên Di xuất hiện Văn Khúc thì…). Mấy chữ “tác cụ nhung” không thể giảng ra được. Chỉ khả dĩ ghép 2 chữ “cụ nhung” thành chữ “tặc” (làm giặc) thì mới có lý thôi. Ý chỉ nếu Liêm Tham Sát Phá gặp nhau lại thêm Văn Khúc xung chiếu Mệnh thì có khuynh hướng làm loạn, làm giặc. “Cụ nhung” cổ nhân tách chữ “tặc” ra cho có vần điệu với từ “phùng” ở vế trên
Liêm Phá vào nữ mạng tháo vát nhưng tính không nhu thuận đưa đến những khó khăn về cuộc sống duyên tình. Liêm Trinh hợp với hai sao Thiên Tướng và Thiên Phủ. Chỉ đi với hai sao này Liêm Trinh mới không tác hại
Phú trong Tử Vi đẩu số viết “Thiên Phủ Tuất cung vô sát tấu, Giáp Kỷ sinh nhân phú vạn kim” (Thiên Phủ đóng Tuất, người tuổi Giáp kỷ giàu có). Thiên Phủ ở Tuất đương nhiên phải đứng với Liêm Trinh. Tuổi Giáp Hoá Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn cung Dần hội theo thế tam hợp
Tuổi Kỷ, Lộc Tồn chiếu từ Ngọ, Hoá Quyền chiếu từ Dần. Thiên phủ tại Thìn với tuổi Giáp không có Song Lộc với tuổi Kỷ Tử Vi hãm. Xem như vậy thấy rằng Liêm Trinh đi với Lộc mới hay. Câu phú chỉ nhắc đến Thiên Phủ, không nhắc đến Liêm Trinh, đó là một lối ẩn ý của cổ nhân. Sự thật là Liêm Trinh đứng sau chủ chốt
Liêm Trinh hội Lộc tiền bạc hoạnh phát, Thiên Phủ thành ông thần giữ kho. Liêm Phủ khi đã nên công thì cơ nghiệp bền, không thăng trầm. Liêm Trinh đứng cùng Thiên Tướng tại Tí Ngọ thì Ngọ đẹp hơn Tí cho tuổi Giáp. Giáp có song Lộc nếu ở Ngọ
Kỷ Lộc Tồn tại Mệnh cung, cái thế gần cận mạnh hơn chiếu. Tuy nhiên cách Liêm Phủ với Liêm Tướng có một khác biệt là: Liêm Phủ trong cuộc phấn đấu gặp may mắn nhiều hơn như thuyền đi gió đẩy. Trong khi Liêm Tướng dùng mồ hôi sức lực để thành công như thuyền phải chèo
Liêm Tướng Nữ mệnh, đàn bà giỏi trị gia gánh vác, tự tay gây dựng cơ nghiệp và ít được nhờ chồng, tuy nhiên cuộc sống lứa đôi vẫn hạnh phúc. Liêm Tướng nếu không phải tuổi Giáp kỷ thì vất vả hơn. Liêm Phủ nếu không phải tuổi Giáp kỷ chỉ ở mức tiểu phú quý mà thôi
Phú viết: Liêm Trinh Bạch Hổ hình tượng nan đào (Liêm Trinh gặp Bạch Hổ hay dính vào pháp luật, tù tội hoặc bị phạt tiền). Bạch Hổ ở câu phú này chỉ vào niên Bạch Hổ chứ không phải Bạch Hổ ngay tại Mệnh
Quan Lộc cung mà Liêm trinh gặp Kình Dương thì thường bị thưa gửi, kiện tụng hoặc mất quyền chức. Liêm Phá Liêm Sát vào cung Thiên Di tất phiêu lãng quê người như Phú có câu: “Liêm Trinh Phá Sát hội Thiên Di tử ư ngoại đạo”, phiêu lãng hoài, đương nhiên không thể chết nơi quê hương bản quán, chứ không phải tử ư ngoại đạo tức là chết đường chết chợ
Liêm Trinh hãm mà gặp Văn Khúc Hoá kị biểu thị con người tham lam vô độ, chỉ ưa tiện nghi, không chịu được gian khổ, dễ vì tiện nghi mà phản bội. Liêm Trinh đứng cùng các sao đào hoa như Tham Lang, Đào Hoa, đàn bà hay có bệnh máu huyết, đàn ông bệnh thận
Người đời sau đưa thêm một số phú đoán về Liêm Trinh:
- Liêm Trinh Phá Quân hiểm phòng vô hạn (Số có Liêm Phá thủ Mệnh luôn luôn phải đề phòng những hiểm nguy)
- Liêm tại Cấn Khôn cung, nữ mệnh trích lệ thương phu, nhược lai Cô Quả không môn tiềm ẩn; nam nhân bất đa truân tai ách ư lương thê (Liêm Trinh độc thủ Dần Thân, số gái dễ xa chồng, phải nhỏ nước mắt thương nhớ, nếu lại gặp phải Cô Thần Quả Tú nữa thì xa hẳn hoặc goá chồng, sống đơn độc; số trai được vợ hiền mà vợ lại chết sớm)
- Liêm toạ Thân cung phùng Phụ Bật
Cách kiêm Hoá cát phúc quang vinh
(Liêm Trinh toạ thủ ở Thân có Tả Phụ, Hữu Bật mà được Khoa Quyền Lộc thì giàu sang)
- Liêm Sát Sửu Mùi, Ất Kỷ âm nam khí hùng trí dũng, Tuần Triệt vô sâm kiêm hữu khoa sinh hạn đá danh tài tốc phát (Liêm Sát Sửu Mùi không bị Tuần Triệt, tuổi Ất Kỷ anh hùng trí dũng, gặp Hoá Khoa Trường Sinh thì phấn phát nhanh chóng)
- Liêm phùng Văn Quế cách bôn ba (Liêm Trinh đứng bên Văn Khúc càng bôn ba)
- Trọng Do uy mãnh Liêm Trinh nhập miếu hội Tướng Quân (Liêm Trinh đứng miếu địa cùng sao Tướng Quân là người anh hùng dám đương đầu như thầy Trọng Do học trò Khổng Tử)
- Vương Lương ải ngục Liêm Trinh hãm Địa Kiếp cư Hoả cung (Liêm Trinh đóng Tị, gặp Địa Kiếp như Vương Lương ngộ nạn trong ngục thất)
- Công danh đợi tuổi tác cao
Giáp Liêm giáp Sát đoán nào có sai
(Mệnh cung bị Liêm Trinh, Thất Sát giáp thì về già mới nên công danh)
- Liêm Hao Tài Bạch cùng ngồi
Phá tan tổ nghiệp ra người lãng nhân
(Liêm Trinh Phá Quân vào Tài Bạch, phá tổ nghiệp, bỏ quê hương mà đi)
- Tham Liêm đồng độ đảo điên
Trai thì phiêu lãng, gái duyên dâm tàng
(Nguồn: Tử Vi Tinh Điển - Vũ Tài Lục)